Bài 1: Tướng Lương: Dù TBT Lê Duẩn đã dự kiến, tôi vẫn chưa tin TQ đánh
Tướng Lê Mã Lương nói: “Lần giở lịch sử, thấy những cuộc xung đột của Trung Quốc với các nước láng giềng thì không có gì ngạc nhiên khi cuộc chiến năm 1979 xảy ra”.
Lời tòa soạn:Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc vào tháng 2/1979 do Trung Quốc phát động xâm lược Việt Nam đã qua đi được 35 năm. Dù Trung Quốc đã rút quân vào đầu tháng 3/1979 nhưng những hy sinh mất mát của người Việt Nam chỉ kết thúc thực sự vào năm 1989, sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Để giúp bạn đọc có những góc nhìn đầy đủ hơn về cuộc chiến bảo vệ từng tấc đất biên cương của quân và dân Việt Nam cũng như bản chất của hành động gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học” từ Đặng Tiểu Bình, chúng tôi xin giới thiệu tới độc giả loạt bài về Chiến tranh biên giới phía Bắc.
Là người từng lăn lộn, chiến đấu tại những nơi ác liệt nhất ở biên giới phía Bắc trong 8 năm, Thiếu tướng Lê Mã Lương vẫn còn nhớ như in những ký ức về cuộc chiến tàn khốc này. Chúng tôi tìm đến vị tướng nổi tiếng với câu nói: “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống quân thù” để nghe ông kể về những năm tháng không thể nào quên trong cuộc đời người lính ở cuộc chiến tranh khốc liệt ấy.
Tướng Lê Mã Lương cho hay: “Kể từ sau khi chiến tranh kết thúc, năm nào tôi cũng có các chuyến đi đến một số tỉnh biên giới phía Bắc với những công việc khác nhau. Nhìn sự phát triển của các địa phương nơi địa đầu của Tổ quốc như ngày nay, mấy ai có thể tưởng tượng được những nơi đó đã từng phải chịu sự tàn phá của cuộc chiến khốc liệt năm 1979 do Trung Quốc phát động với ý đồ “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Thiếu tướng Lê Mã Lương (Ảnh: Tuấn Nam)
Ông bồi hồi nhớ lại: “Sau khi giải phóng miền Nam năm 1975, tháng 8/1975, Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 304 cùng với một số đơn vị khác rời Sài Gòn lên Tây Nguyên để tiêu diệt Fulro. Suốt từ 8/1975 cho đến 6/1976, chúng tôi lăn lộn trên vùng Tây Nguyên và đã thực hiện được nhiệm vụ rất vẻ vang là làm tan rã toàn bộ lực lượng Fulro – lực lượng có ý đồ tách vùng Tây Nguyên của Việt Nam ra thành một nhà nước độc lập.
Với bài học luôn cảnh giác, khi chiến tranh biên giới ở phía Tây Nam nổ ra, các lực lượng của chúng ta lại bước vào một cuộc chiến mới với tâm thế rất đàng hoàng, đĩnh đạc vì yêu cầu của nước bạn, giúp bạn trên tinh thần giúp bạn như giúp chính mình. Vì vậy chúng ta đã hết sức vô tư cam kết với bạn và cùng với bạn tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Pol – Pốt mà đứng đằng sau họ là đội ngũ cố vấn của Trung Quốc. Trung Quốc đã trang bị và có những đảm bảo về hậu cần giúp cho quân đội Khmer – đỏ chống lại quân tình nguyện và quân cách mạng Campuchia.
Chúng ta đã có thêm một bài học và linh tính có một sự manh nha nào đó về một cuộc chiến với người bạn lớn, nước láng giềng lớn đã từng kề vai sát cánh với chúng ta trong sự nghiệp chống kẻ thù chung. Những người bạn đó đã giúp cho kẻ thù chống phá sự bình yên vừa hé mở đối với Việt Nam. Sau hành động này của Trung Quốc ở biên giới Tây Nam, một lần nữa hiện thực lại cho thấy để có một nền hòa bình, chúng ta cũng phải trả những giá rất đắt. Chính vì vậy khi chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, có nhiều người bất ngờ nhưng xâu chuỗi lại những hành động của Trung Quốc thì lại không có gì là bất ngờ.
Tôi chỉ có ngạc nhiên là một nước XHCN lại phát động một chiến chống lại một nước XHCN khác vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ 21 năm? Sao lại có hành động của Trung Quốc ở Campuchia? Sao Trung Quốc lại phát động cuộc chiến tranh chống lại Việt Nam như vậy?”
Tháng 8/1975, tôi bước vào cuộc chiến đấu mới. Đến tháng 7/1976, tôi rời khỏi miền Nam lên đường ra Bắc đi học. Tháng 8/1976 – 8/1978, tôi kết thúc một khóa học cơ bản ở Học viện Chính trị quân sự ở Hà Đông.
Sau khóa đào tạo cán bộ trung, cao cấp của quân đội, tôi được cử ở lại làm giáo viên khoa Công tác Đảng, công tác Chính trị. Chỉ một thời gian ngắn, tôi cũng như nhiều sỹ quan khác nghe phong thanh về quan hệ căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc. Chúng tôi bắt đầu có linh cảm sớm muộn gì rồi chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ xảy ra. Và với mật độ căng thẳng giữa 2 nước ngày càng tăng tại thời điểm đó thì sẽ dẫn đến căng thẳng ở biên giới giữa hai nước. Sau đó, chúng tôi được nghe quán triệt tinh thần của Nghị quyết của Bộ Chính trị và Trung ương Đảng đánh giá về Mỹ và Trung Quốc. Lúc đầu, một số anh em ngạc nhiên tại sao lại đánh giá Trung Quốc như thế. Nhưng khi trao đổi và lần giở những trang lịch sử thì thấy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sẽ đến một trang đen tối và Trung Quốc có thể tấn công Việt Nam bất kỳ lúc nào.
Lần giở lịch sử thì có thể thấy quan hệ giữa các nước XHCN và đặc biệt là giữa Trung Quốc với các nước láng giềng. Năm 1962, Trung Quốc đã có một cuộc xung đột ở biên giới với Ấn Độ; Năm 1969, Trung Quốc lại có xung đột biên giới với Liên Xô gây ra sự ngạc nhiên cho rất nhiều người. Sự ngạc nhiên đó xuất phát từ những vấn đề như Chủ nghĩa Xét lại, Chủ nghĩa Sovanh… đã không thể được dung hòa, buộc dẫn đến cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”.
Sau năm 1969, đầu năm 1972, sau một cuộc ngoại giao "bóng bàn", đã có một cuộc tiếp xúc giữa Nixon và Mao Trạch Đông ở Trung Quốc. Từ đó hé ra một điều: Trung Quốc đứng trên lưng Việt Nam bán đứng Việt Nam, lấy Việt Nam ra để mặc cả với Mỹ. Hội nghị Paris năm 1972 cũng có những bế tắc mà chính từ bế tắc đó mà Mỹ tìm đến Trung Quốc. Trung Quốc đã có những thỏa thuận đối với Mỹ tại Hội nghị Thượng Hải. Một thông báo chung giữa Mỹ và Trung Quốc đã được đưa ra.
Tháng 12/1972, Việt Nam đã phải bước vào một cuộc chiến đấu mà sau này chúng ta gọi đó là trận “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm. Khi đó, một trung tướng của Mỹ có nói sẽ cho Việt Nam quay trở lại thời kỳ đồ đá. Nhưng thực tế, Việt Nam không bị quay trở lại thời kỳ đồ đá mà còn đánh sập hiện tượng “pháo đài bay” - lực lượng chiến lược của không quân Mỹ buộc Mỹ phải xuống thang và bước vào ký Hiệp định Paris.
Thông qua đó, chúng ta thấy được Trung Quốc từ khi lập nước năm 1949 đến 1973 và cho đến 1979, trải qua mấy chục năm, quan hệ với Việt Nam lúc mặn nồng, lúc tẻ nhạt, lúc coi Việt Nam như kẻ thù. Nhưng với Việt Nam, thực tế, Việt Nam chưa bao giờ coi Trung Quốc là kẻ thù. Chỉ khi Trung Quốc phát động chiến tranh thì Việt Nam mới coi tập đoàn lãnh đạo Trung Quốc khi đó là kẻ thù trực tiếp.
Dưới góc độ nào đó, Trung Quốc đã có những sự giúp đỡ cả sức và của với Việt Nam chống Mỹ và chống Pháp trước đó. Ngược lại, Việt Nam đã giúp cách mạng Trung Quốc rất nhiều nhất là giai đoạn 1950 – 1952, dọc theo vùng biên giới khi Cách mạng Trung Quốc có những khó khăn. Trước năm 1949, chúng ta cũng đã giúp cách mạng Trung Quốc. Nhiều cán bộ, chiến sỹ Việt Nam đã tham gia vào quân giải phóng Trung Quốc và nhiều người đã hy sinh. Về mặt giúp đỡ, Việt Nam cũng giúp Trung Quốc. Lịch sử rất công bằng”, tướng Lê Mã Lương nhớ lại.
Vị tướng này kể tiếp: “Quay trở lại thời điểm cuối năm 1978, khi có Nghị quyết của Bộ Chính trị như vậy, nhiều người đã ngạc nhiên. Tháng 10/1978, Tổng cục Chính trị lấy một số cán bộ trẻ có kinh nghiệm chiến đấu ở miền Nam, được học cơ bản để đi một số quân khu, quân đoàn để phổ biến tinh thần của Nghị quyết của Bộ Chính trị đánh giá về tình hình thế giới, Mỹ và Trung Quốc cùng nguy cơ một cuộc chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc. Tôi được tham gia vào cuộc đi này.
Tôi đưa 500 học viên của các trường: Trường Sỹ quan Chính trị, Trường Sỹ quan Lục quân, Trường Sỹ quan Quân Y (nay là Học viện Quân Y) đến các đơn vị ở biên giới phía Bắc thuộc phạm vi của quân khu 2. Lực lượng chủ yếu của 500 học viên ấy đi về Sư đoàn 316 với nhiệm vụ giúp Sư đoàn này bằng khả năng chuyên môn của mình. Đồng thời đây cũng là chuyến đi thực tế của các học viên trước khi về đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu. Trong chuyến đi dài 3 tháng ấy (từ tháng 10 đến tháng 12/1978), các học viên đã lăn lộn ở các đơn vị biên giới phía Bắc từ Quảng Ninh cho đến Hà Giang. Các học viên đã giúp các đơn vị nhiều mặt, kể cả về mặt huấn luyện lẫn phổ biến tinh thần Nghị quyết của Bộ Chính trị để thông qua đó những người chiến sỹ ở chốt - những người sẽ trực tiếp đối đầu với quân đội Trung Quốc khi Trung Quốc phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam - xác định được kẻ thù mới, an tâm thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ cao cả: Bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
Kết thúc chuyến đi đó, trong một báo cáo gửi Học viện Chính trị và gửi Tổng cục Chính trị, tôi có nhấn một điểm rằng: Các đơn vị ở biên giới phía Bắc thể hiện tinh thần sẵn sàng chiến đấu rất cao, thể hiện tinh thần đoàn kết cao. Tình cán – binh được thể hiện ra trong quá trình huấn luyện, trong sẵn sàng chiến đấu, trong công tác đảm bảo hậu cần tại chỗ. Đó là nét lớn nhất và rõ nhất của những người chiến sỹ ở vùng biên giới. Dù đã kết thúc chuyến đi thực tế và rút về nhưng trong sâu thẳm suy nghĩ, tôi cho rằng không có lý nào mà Trung Quốc lại đánh Việt Nam mặc dù Tổng Bí thư Lê Duẩn đã có dự kiến: “Trong thời gian sắp tới, Trung Quốc có thể sẽ phát động một cuộc chiến tranh trong phạm vi và không gian lớn. Có thể chúng ta phải đụng với 1 – 1,5 triệu quân của Trung Quốc. Các tỉnh biên giới phải hết sức cảnh giác và sẵn sàng cho cuộc chiến đấu”.
Bài 2: Quân TQ năm 1979: "Chưa thấy đội quân nào ô hợp, hôi của như thế"
Nói về lính Trung Quốc, tướng Lương chia sẻ: “Trang bị của quân Trung Quốc làm cho chúng tôi thấy rất bất ngờ bởi sự yếu kém của họ".
Kể tiếp về cuộc chiến biên giới phía Bắc năm 1979, Thiếu tướng Lê Mã Lương chia sẻ: “Qua dự kiến của Tổng Bí thư Lê Duẩn khi đó, rõ ràng về mặt chiến lược Việt Nam không bị động bởi đã có sự dự kiến lực lượng Trung Quốc sang xâm lược Việt Nam. Đó là một dự kiến về mặt chiến lược, không gian chiến trường. Dù Bộ Chính trị không hề mất cảnh giác nhưng ở cấp dưới trong đó có cả tôi cũng suy nghĩ rằng: Không lẽ nào một nước XHCN với diện tích lớn như Trung Quốc lại đem quân đi đánh một nước XHCN có diện tích nhỏ hơn như Việt Nam mà chỉ có thể có những xung đột ở vùng này, vùng kia. Tuy nhiên, trong thâm thâm cũng như khi đi nói chuyện với cán bộ, chiến sỹ, tôi đều xác định cho anh em chúng ta sẵn sàng chiến đấu, mọi thứ có thể thay đổi: Trung Quốc có thể lật lọng với những cam kết với Việt Nam; Trung Quốc có thể phát động một cuộc chiến lớn như Nghị quyết của Trung ương. Và hơn lúc nào hết, Việt Nam phải chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu mới.
Đúng như Tổng Bí thư Lê Duẩn dự kiến, ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Trước đó, trong suốt thời gian đầu năm 1979, các đơn vị phía biên giới thường xuyên có những kiểm tra và báo động. Khi đó, chúng ta liên tục chuyển trạng thái: từ thấp lên cao nhất – trạng thái “toàn bộ” rồi lại hạ nhiệt xuống “lên cao” rồi xuống nữa là “thường xuyên”. “Thường xuyên” là mức trực chiến thấp nhất. Chính khi chúng ta bước vào mức độ chiến đấu “trạng thái thường xuyên” thấp nhất (bộ đội không còn trong trạng thái căng thẳng nhất) thì Trung Quốc phát động chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc hơn 600 km ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ Quảng Ninh cho đến Lai Châu.
Bệnh viện huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2/1979 (Ảnh tư liệu)
Chúng ta phải đối diện với 60 vạn quân Trung Quốc trên 1 tuyến biên giới rộng lớn. Trong khi đó, về phía ta, chủ yếu là quân ở sư đoàn 316 – một trong những sư đoàn thiện chiến của quân đội thuộc quân khu 2. Việt Nam đưa thêm Sư đoàn 3 từ miền Trung cũng là một sư đoàn thiện chiến ra Lạng Sơn từ 8/1978.
Chúng ta xác định, nếu chiến tranh xảy ra thì Lạng Sơn sẽ là hướng chủ yếu. Vì thế, Sư đoàn 3 ra ngay Thị xã Lạng Sơn để sẵn sàng đánh địch. Các đơn vị khác trên tuyến biên giới như sư đoàn 395 và Sư đoàn 345 hầu hết là các sư đoàn làm kinh tế, làm đường dọc tuyến biên giới được lệnh khẩn trương, cấp tốc trang bị lại để bước vào cuộc chiến đấu.
Khi đó tôi thuộc Sư đoàn 395 ở Quảng Ninh. Các đơn vị chủ lực khác của Việt Nam đang bị hút vào biên giới Campuchia. Còn Quân đoàn 1 thì án binh bất động để giữ Trung ương và hậu phương, đề phòng địch sử dụng quân dù nhảy thẳng vào Thủ đô Hà Nội hòng chia cắt hậu phương với tiền tuyến. Quân đoàn 1 sẵn sàng chiến đấu ở hậu phương.
Khi bước vào cuộc chiến đấu tháng 2/1979, tinh thần của nhân dân Việt Nam nói chung và các tỉnh phía Bắc sục sôi. Nhất là khi có sự phát lệnh tổng động viên, một không khí chống quân Trung Quốc xâm lược sục sôi từ Hà Nội lên đến các tỉnh biên giới phía Bắc sẵn sàng chiến đấu ở ngày đầu tiên. Nhân dân theo hướng dẫn tự đào hầm, hố như thời chống Mỹ để nếu quân Trung Quốc chia các mũi tiến về Hà Nội thì có thể sẵn sàng chiến đấu.
Tôi còn nhớ như in, tại thời điểm đó, nhân dân bình tĩnh, hết sức lạc quan và không hề tỏ ra sợ Trung Quốc. Còn phía trước, bộ đội ta với tinh thần được quán triệt quân Trung Quốc đông nhưng không mạnh. Đánh giá này của Trung ương về Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn về mặt chiến lược”.
Theo tướng Lê Mã Lương, đội quân xâm lược Việt Nam tháng 2/1979 là quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được trang bị rất kém: một khẩu súng trường, một chiếc ba lô với những thứ gì đó đảm bảo cho cuộc chiến đấu dài ngày.
“Trang bị của quân Trung Quốc làm cho chúng tôi thấy rất bất ngờ bởi cho đến năm 1979 mà trang bị cho quân đội của Trung Quốc lại yếu kém, ô hợp và hôi của như thế. Khi lực lượng chiến đấu của Trung Quốc đi trước hoặc chiếm được những vị trí, những đường phố của ta thì phía sau là đội quân dân binh rất đông vừa đảm bảo sức chiến đấu quân Trung Quốc nhưng lại là đội quân ô hợp để hôi của. Họ vào nhà dân vơ vét tất cả những gì có thể dùng được. Trong lịch sử, tôi chưa từng thấy một quân đội của một nước lớn nào phát động chiến tranh lại đưa dân binh đi để vơ vét của cải như thế. Thậm chí họ còn bắt gà, bắt lợn và xuống ao để bắt cá. Nếu không dùng được thì cho bộc phá giật nổ. Hành động của quân Trung Quốc khiến tôi liên tưởng đến năm 1945 khi quân Tàu – Tưởng sang Việt Nam đi giải giáp quân đội Nhật. Không thể tưởng tượng được quân đội của một nước mạnh như Trung Quốc lại vô kỷ luật như vậy. Bộ đội Việt Nam rất ngạc nhiên về hành động của lính và dân binh Trung Quốc”, tướng Lê Mã Lương nói.
Thiếu tướng Lê Mã Lương kể tiếp: “Trên hướng chúng ta dự kiến là hướng chủ đạo, đã có những trận đấu hết sức quyết liệt và những chiến sỹ của Sư đoàn 3 – một trong những sư đoàn dũng cảm ở miền Nam, đã chặn đứng quân địch, không để cho quân địch phát động những cuộc hành quân ồ ạt hoặc tiến sâu vào vùng nội địa của Việt Nam. Cùng với Sư đoàn 3, trên hướng Tây Bắc, Sư đoàn 316 là một trong những sư đoàn chặn đứng cuộc hành binh của Trung Quốc tiêu diệt hàng đại đội lính Trung Quốc - điều mà quân Trung Quốc không thực hiện được đối với quân Việt Nam.
Chưa có trận đánh nào quân Trung Quốc làm tê liệt nổi một đại đội của Việt Nam. Trong khi đó bộ đội ta tổ chức những trận đánh tiêu diệt gọn một đại đội của quân Trung Quốc. Đó mới chỉ là những trận đánh của các Sư đoàn chứ chưa phải là sư đoàn cơ động - chủ lực của quân đội Việt Nam. Suốt cho đến cuối tháng 2, đầu tháng 3/1979, mặc dù quân Trung Quốc đã phá hủy 5 thị xã, thị trấn: Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Phong Thổ, Lào Cai nhưng các đơn vị biên phòng, lực lượng tự về, sư đoàn làm kinh tế cùng 2 sư đoàn chiến đấu tinh nhuệ của ta là Sư đoàn 3 và Sư đoàn 316 đã chặn đứng những bước tiến của quân địch.
Trong kế hoạch của quân đội Trung Quốc, nếu như có thể tiến sâu về Hà Nội thì cố gắng tiến sâu nhưng đã không một đơn vị nào của Trung Quốc có thể vượt qua tuyến một (tuyến các tỉnh biên giới) để xuống tuyến hai và hướng về Hà Nội. Hai bên quần thảo với nhau ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc chứ quân Trung Quốc chưa tiến được sâu hơn. Chúng ta đã chặn được ý đồ của Đặng Tiểu Bình khi phát động cuộc chiến xâm lược Việt Nam “dạy cho Việt Nam một bài học”.
(còn nữa)
Last edited by Gấu Vương; 06-08-2014 at 04:57 PM.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Gấu Vương
Bài 3: Chiến tranh biên giới năm 1979: VN đã tuân thủ ý kiến TBT Lê Duẩn
Trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới năm 1979, theo tướng Lê Mã Lương, chính Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc bài học về mặt chỉ huy chiến trường...
Nói về kết quả của cuộc chiến tranh biên giới, Thiếu tướng Lê Mã Lương cho rằng: “Chính Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc bài học về mặt chỉ huy chiến trường, dạy Trung Quốc về tổ chức chỉ huy binh chủng hợp thành, dạy cho Trung Quốc cách đánh phân đội nhỏ và những chiến thuật luồn sâu, chia cắt và chiến thuật bao vây, tiêu diệt những phân đội, đơn vị chiến đấu cơ bản của Trung Quốc. Chúng ta đã dạy cho Trung Quốc nhiều bài học chứ không phải như Đặng Tiểu Bình nói dạy cho Việt Nam một bài học”.
Và thông qua cuộc phát động chiến tranh xâm lược 6 tỉnh biên giới Việt Nam, Trung Quốc đã ngộ ra nhiều điều. Trung Quốc đã mất một người bạn chiến lược, một người láng giềng hết sức thân thiện. Với ta, ta đã làm cho nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của quân Trung Quốc: “Biến bạn thành thù” và vô cớ phát động chiến tranh xâm lược dưới giọng điệu kiêu ngạo: “Dạy cho Việt Nam một bài học”, vu khống Việt Nam như kẻ vô ơn bạc nghĩa.
Nhưng Trung Quốc đã không hình dung ra được cuộc chiến tranh đó đã khiến họ tổn thất rất lớn về mặt con người, về hình ảnh của đất nước với thế giới, uy tín của một nước lớn khi phát động chiến tranh để đánh lại một nước XHCN nhỏ hơn, yêu chuộng hòa bình như Việt Nam. Một cuộc chiến tranh thảm khốc và Trung Quốc không phải là người thắng cuộc.
Các mũi tấn công Việt Nam của quân Trung Quốc tháng 2/1979
Trung Quốc đã không khuất phục được Việt Nam. Cuộc chiến đó là một sự thất bại mà Trung Quốc không muốn nhắc lại nó. Đối với các quân nhân của quân đội Việt Nam, anh em chúng tôi bước vào cuộc chiến đó với tâm thế của người chiến thắng: Chiến thắng Mỹ và sẵn sàng đối đầu với một thế lực mới. Anh em cũng rất tự hào khi giành chiến thắng mặc dù chúng ta đã có những tổn thất không nhỏ về người và kinh tế.
Tuy nhiên, cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc năm 1979 trước Trung Quốc đã làm cho chúng ta thấy được bản chất của Trung Quốc – Chủ nghĩa sôvanh nước lớn và luôn gây hấn với các nước xung quanh, luôn làm cho các nước xung quanh nghi ngờ, cảnh giác”.
"Sau ngày 5/3/1979, Đặng Tiểu Bình quyết định dừng cuộc tiến công Việt Nam và rút quân. Theo tướng Lê Mã Lương, nếu ngày 5/3, Trung Quốc không rút quân thì Việt Nam sẽ đưa sư đoàn 312, đưa cơ động lên để bước vào cuộc chiến tiêu diệt cấp trung đoàn của Trung Quốc ở Lạng Sơn.
Lúc bấy giờ, tôi được rút ra cùng một số cán bộ khác ở Bộ Tổng Tham mưu và đến làm nhiệm vụ đốc chiến Sư đoàn 312 để bước vào một trận đánh, một trận đánh thử nghiệm tiêu diệt cấp trung đoàn. Khi Đặng Tiểu Bình cho rút quân thì Sư đoàn 312 cũng án binh bất động rồi rút quân về phía sau.
Quân đội Việt Nam cũng tuân thủ ý kiến của Tổng Bí thư Lê Duẩn là đảm bảo cho các đơn vị của Trung Quốc rút quân mà không có bất kỳ sự bao vây, ngăn chặn gây khó khăn nào cho các đơn vị của Trung Quốc. Chúng ta đã thực hiện điều đó nghiêm túc như trong lịch sử khi quân phương Bắc xâm lược thua trận kéo về nước mà không bị đánh tiếp. Cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 là một cuộc chiến tranh hao người tốn của. Cuộc chiến đã để lại cho người Việt Nam một vết hằn, nỗi nhức nhối về Trung Quốc. Như vậy sau 30 năm chiến tranh giải phóng đất nước, chúng ta bước vào cuộc chiến mới 12 năm bảo vệ Tổ quốc và nâng thời gian chiến đấu liên tục của Việt Nam lên con số 42 năm – điều hi hữu đối với bất kỳ một dân tộc nào trên thế giới. Chúng ta đã chiến đấu hết sức kiên cường, giữ được nền độc lập của dân tộc".
(còn nữa)
Last edited by Gấu Vương; 06-08-2014 at 04:57 PM.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Gấu Vương