VietNamNet) - Có một cụm tình báo đặc biệt, suốt 13 năm gồng mình trong tuyến lửa, mở những mạch máu vận chuyển thông tin, tài liệu thông suốt từ nội đô Sài Gòn ra tới chiến khu, chưa một lần đứt đường dây dù trong giai đoạn gian khổ, ác liệt nào. Cụm tình báo có bí số H.63, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân từ năm 1970, khi miền Nam còn chưa hoàn toàn giải phóng
Những câu chuyện sau đây kể về phần nổi trong tảng băng chìm dày, về những chiến công, hy sinh của những người hoạt động trên mặt trận thầm lặng: Tình báo quân sự, với niềm tin cống hiến “Đảng và nhân dân sẽ công bằng chấm công, khi hy sinh”.
Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"
Cuộc sống luôn có những điều kỳ lạ. Giữa gian nan, ta tìm thấy bạn. Giữa chiến tranh, ta thấy lòng trung thành. Trong chiến tranh Việt Nam có những anh hùng tình báo gắn kết với nhau bởi những điều... không thể lý giải. Tổ quốc có một Phạm Xuân Ẩn - người anh hùng có cái tên như cuộc đời (1).
Còn Phạm Xuân Ẩn lại có một người bạn - người đồng đội cũng có cái tên như cuộc đời như thế: Nguyễn Thị Mỹ Nhung - người đẹp giữa đất Sài Gòn...
Chuyến trở về bão táp
Ngày 10/10/1959, trên chuyến bay từ Mỹ về Sài Gòn có một thanh niên còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp 2 năm du học báo chí tại California. Anh trở về với tâm trạng ngổn ngang: Mình là ai? Ai đã biết về mình? Liệu có chiếc còng tay hay họng súng nào chào đón?.
Từ hôm nay (17/08/2007), báo điện tử VietNamNet sẽ khởi đăng loạt phóng sự dài kỳ về Cụm tình báo huyền thoại H.63 trong những năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả!
Khi máy bay vừa hạ cánh, anh tận mắt thấy chiếc xe bịt bùng của an ninh quân đội chế độ Sài Gòn hú còi trên đường băng Tân Sơn Nhất. Chiếc xe dừng sát chân cầu thang máy bay, đưa lên xe... một người đàn ông trẻ khác. Chỉ đến khi mọi hành khách đi rồi, anh mới từ từ đặt chân xuống Tổ quốc.
Thấy người nhà ra đón, thấy nụ cười của mẹ và em trai, lúc bấy giờ anh mới thở phào "tạm ổn".
Người thanh niên trẻ có nụ cười tinh nghịch ấy, về sau, đã viết nên một huyền thoại mẫu mực về một điệp viên chui sâu trong lòng địch, là cơ cán đi sâu thường được biết tới với cái tên Phạm Xuân Ẩn.
Nhưng câu chuyện này không chỉ kể về vị thiếu tướng tình báo huyền thoại của Việt Nam mang tên Phạm Xuân Ẩn, có tên thật là Trần Văn Trung (Hai Trung)…
Câu chuyện con két và con chó xù
Năm 1957, Hai Trung rời Sài Gòn, mang theo một mệnh lệnh: "Sang Mỹ, học thật giỏi. Phải học Mỹ, hiểu Mỹ, mới đánh Mỹ tốt được". Ngành học được chọn là báo chí, nghề duy nhất thời bấy giờ chưa có người Việt Nam nào được đào tạo tại Mỹ.
Ngoài ra, anh học tất cả mọi thứ để có thể hiểu Mỹ, sống như Mỹ, trở thành một thứ "Mỹ con" (thuật ngữ dùng để gọi những người được Mỹ đào tạo và nâng đỡ thời bấy giờ ở miền Nam Việt Nam, khi người Mỹ chính thức hất cẳng người Pháp năm 1954 để can thiệp vào Việt Nam) như kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Anh còn cố công học từ cách nhảy đầm thật ngọt cho tới việc... chửi thề sao cho thật giống Mỹ.
Cuối năm 1959, khi vừa hoàn thành nửa chặng đường (dự kiến khoá học kéo dài 4 năm), Trung nhận được bức thư nhà của người em trai, kể đại ý: Có 2 anh em nhà nọ vào rừng, người em bị quái vật bắt. Người anh thương em quay trở lại tìm, bị quái vật bắt nốt. Cả con chó và con két, vốn là vật nuôi thân thiết của 2 anh em, cũng chung số phận.
Bức thư gửi vào dịp lễ Phục Sinh, và Trung phải đoán mất mấy ngày mới nhớ ra: Người chỉ huy trực tiếp của mình, bí danh "anh Ba", từng được ba Trung cho 1 con két và 1 con chó xù về làm quà cho con gái, đã bị bắt. Người chỉ huy khác, Trung thường gọi là "anh Hai", cũng đã bị cầm tù.
Mãi về sau, trong tự thuật của mình, Hai Trung nhớ lại: "Lúc bấy giờ, Trung thật sự hoang mang. Địch đã biết tung tích của mình chưa? Các anh bị bắt có khai ra mình không? Địch sẽ triệu hồi mình về nước để bắt, hay bắt ngay tại bên này? Hay chúng sẽ chờ mình về, rồi theo dõi bắt trọn ổ?...".
Hàng loạt câu hỏi đau đáu theo Trung cho đến khi hoàn thành 3 tháng thực tập tại các toà soạn báo lớn ở Wasshington DC, lấy vé máy bay lên đường về Sài Gòn. Trước đó, anh đã tính tới trường hợp đi qua Canada hoặc Mexico, từ đó qua một nước thứ ba (Pháp) rồi tìm đường về Hà Nội.
Tuy nhiên, lòng trung thành tuyệt đối của anh vào Đảng, vào nhân dân và vào những người đồng đội đã giúp anh có thêm bản lĩnh vững vàng. Được tôi luyện ngay trong lòng địch khi còn ở Việt Nam, được thử lửa trong môi trường đầy hấp dẫn trên đất Mỹ, trách nhiệm của một người lính đã thôi thúc anh trở về: "nếu bỏ trốn là đào ngũ", "nếu bỏ cuộc thì bao nhiêu công lao của tổ chức gây dựng sẽ đổ sông đổ bể hết".
Hơn thế nữa, với lòng tin tuyệt đối vào tình đồng chí thuỷ chung, “các anh chỉ huy sẽ không bao giờ khai ra mình", cộng với việc phân tích tình huống, diễn biến qua trao đổi thư nhà, Hai Trung đã quyết định "trở về".
Một quyết định dựa trên tất cả lòng tin vào những người đồng chí, dựa trên sự hy sinh thầm lặng của đồng đội mà mãi về sau đã được khẳng định: Đó là niềm tin tuyệt đối đúng.
Thâm nhập ổ sói
... Chỉ trong vòng 1 năm từ khi đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhất, Hai Trung nhanh chóng xác lập các mối quan hệ nguồn tin trên tư cách là nhà báo đầu tiên được đào tạo từ Mỹ về, theo con đường tự túc.
Ông Phạm Xuân Ẩn và tấm thẻ nhà báo của mình từ năm 1965 - Ảnh do Hãng AP chụp năm 2000.
Việc đầu tiên của Trung sau khi về nước là tiếp xúc với Việt Tấn Xã, cơ quan do Nguyễn Thái (Thái "trắng") đứng đầu. Thái "trắng" vốn từng làm báo tại Mỹ, nhưng quan trọng hơn, ông ta là một trong số bốn người được Tổng thống đương nhiệm của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ là Ngô Đình Diệm "thương như con" (dù Ngô Đình Diệm không lập gia đình), dìu dắt từ bên Mỹ về để giao trọng trách.
Nhưng có một điều bất ngờ mà phải đến sau khi cuộc đảo chính của lính dù cuối năm 1960 do Nguyễn Chánh Thi cầm đầu, Hai Trung mới phát hiện ra: Hoá ra Thái "trắng" làm việc cho CIA (Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ), và là một trong số những nhân vật giấu mặt trong cuộc đảo chính "cảnh cáo" gia đình “cha nuôi” Diệm - Nhu. Bàn tay của CIA đã thò vào và thao túng giới chức Sài Gòn ngay từ rất sớm.
Tuy nhiên, biên chế của Việt Tấn Xã không cho phép Thái "trắng" tiếp nhận Trung (dưới cái tên Phạm Xuân Ẩn). Thái "xui" Trung đến gặp Trần Kim Tuyến - Giám đốc Sở nghiên cứu Chính trị Xã hội của Phủ Tổng thống, cơ quan mật vụ của Diệm - Nhu.
Trung lại thông qua Lê Văn Thái, phụ tá của Tuyến, để tiếp xúc với nhân vật từng có quan hệ từ trước với mình, nhưng đã quá lâu rồi chưa gặp mặt. Kênh tiếp theo nữa để tác động là The Asia Foundation (Cơ quan Văn hoá Á châu), tổ chức tình báo ngầm của Mỹ, từng giúp Hai Trung khi xin giấy tờ đi du học.
Rốt cuộc, 1 tháng sau khi từ Mỹ trở về, Hai Trung đã chính thức trở thành nhân viên biệt phái của Biệt bộ phủ Tổng thống, làm việc tại Việt Tấn Xã (giúp Thái “trắng” quản lý 4 nhân viên của Tuyến đi biệt phái tình báo dưới hình thức làm nhà báo nhưng quanh năm không viết bài nào), trao đổi công việc trực tiếp với Lê Văn Thái, Trần Kim Tuyến.
Tới tháng 10/1960, Trung kiêm nhiệm thêm công việc thứ ba: Trở thành thông tín viên cho hãng Reuters, chi nhánh tại Sài Gòn.
Tròn 1 năm trở về, Hai Trung - Phạm Xuân Ẩn đã chính thức đặt dấu ấn lên làng báo Sài Gòn, với hàng loạt nguồn tin từ Sở nghiên cứu Chính trị Xã hội của Trần Kim Tuyến; The Asia Foundation; làm thêm cho tờ nguyệt san “Quê hương" do Tuyến tổ chức; làm việc cho Việt Tấn Xã; quan hệ với Hội cựu sinh viên Việt Nam ở Mỹ (The American University Alumni Association) mà Đại sứ Mỹ tuần nào cũng mời đến nhà chơi để giúp đỡ; một số sỹ quan có ảnh hưởng trong chế độ Diệm; phòng Thông tin của Anh và nhân viên toà đại sứ Anh...
Khi đã "chắc chân" trong hàng ngũ địch, Hai Trung bắt đầu tự đi tìm lại tổ chức mà ông đã mất liên lạc từ lâu. Biết là nguy hiểm, vi phạm nguyên tắc, nhưng với Trung lúc bấy giờ, đó là sự lựa chọn duy nhất. Và người Trung chọn, là chị em Tám Thảo...
Trong di cảo còn lưu giữ lại đến giờ, Phạm Xuân Ẩn đã dành hẳn những dòng viết đầy trang trọng cho người phụ nữ ấy: Năm 1960, Tám Thảo (Mỹ Nhung) chính là người đã móc nối cho Hai Trung (bí số 2T) trở lại với tổ chức. [...] Đến sau này, khi phải chiến đấu âm thầm trong lòng địch, đôi lúc vì quá cô đơn giữa kẻ thù, Hai Trung đã tự ý tìm đến gia đình cô, để được nói chuyện, được sống thật và được cân bằng lại chính mình.
Tám Thảo hay Mỹ Nhung: Cô là ai mà nhà tình báo lỗi lạc Phạm Xuân Ẩn dành trọn niềm tin đến như vậy?
Kỳ 2: Tiểu thư Thành đô sống như... tiểu thuyết
09:05' 18/08/2007 (GMT+7)
(VietNamNet) - Đứng ở góc nhìn giai cấp và lý tưởng, không ít người đã từng băn khoăn hỏi: Tại sao một tiểu thư con nhà tư sản, đẹp và giàu có như Mỹ Nhung (Tám Thảo) lại xuất hiện trong cuộc chiến tranh này?
>> Kỳ 1: "Hoa trong tuyến lửa"
Nếu hiểu chiến tranh dưới góc độ ý thức hệ giai cấp: Cộng sản – Tư bản, thì rõ là giai cấp mà cô xuất thân hoàn toàn xa lạ với giai cấp công nông. Người công nhân, nông dân đấu tranh để giành cơm no, áo ấm, độc lập dân tộc và công bằng xã hội, để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Còn sự hy sinh của Tám Thảo và gia đình cô trong cuộc chiến này lại là một lát cắt khác mà không phải học giả nào cũng có thể lý giải được.
"Hoa" truyền đơn
Chuyện về cô khó có thể bắt đầu bằng hình ảnh nào khác ngoài một bức tranh về người con gái đẹp bước ra từ nhung lụa.
Là con một gia đình tư sản giàu có ở Sài Gòn, ngay từ bé, Mỹ Nhung chẳng phải làm gì, chỉ biết học, chơi và xem tiểu thuyết. Cô mê những con người trong thế giới chữ nghĩa, mê những truyện ngắn đăng báo hằng tuần của Thế Lữ, mê tiểu thuyết của các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
Những câu chuyện về một lớp thanh niên trí thức cứ trăn trở tìm đường làm cách mạng lôi cuốn cô suốt một thời thiếu nữ. Cô đọc chỉ để... chơi. Nhưng ai dè, chơi rồi thành thật. Cái đẹp, cái bi của những cuốn tiểu thuyết anh hùng rốt cuộc lại vận vào chính cuộc đời cô.
Năm 1948, tiểu thư Mỹ Nhung theo gia đình rời Sài Gòn về Vĩnh Long kháng chiến. Khi ấy cô mới 16 tuổi, chưa từng biết nấu nướng, chỉ mê sách, điện ảnh và hoa. Thế nên trong hành trang chiến đấu, vũ khí của cô chỉ là... tiểu thuyết.
Hàng ngày, cô bé Nhung được tận mắt chứng kiến cảnh các chị bên hội phụ nữ đi rải truyền đơn. Trước mỗi lần “xuất trận”, các chị đều kín đáo đặt truyền đơn lên một góc xe hơi, đợi đến khi xe nổ bánh, gió thổi bạt lại làm tung tròn những lá truyền đơn lên không trung rồi rụng xuống lả tả. Cô nhìn mà cứ mê đi vì cảnh rải truyền đơn... “đẹp hơn cả tiểu thuyết!”.
Mê quá rồi, cô nằng nặc đòi theo, nhưng đều bị các chị gạt phắt đi vì “còn con nít”. Các chị biết giải thích thế nào cho bé Mỹ Nhung hiểu đây, rằng đằng sau những “chùm hoa” truyền đơn đó là đòn roi, là trừng phạt, là tù đày đang giăng lưới?
Phải đến sau này, khi đã thực sự trải qua ranh giới khốc liệt giữa cái sống và cái chết, cô mới hiểu rằng khoảnh khắc “đẹp hơn tiểu thuyết” ấy chỉ là phút giây thăng hoa tột đỉnh của một chuỗi dài gian nan, nguy hiểm đến chết người.
Thiếu nữ Sài Gòn trên chiếc xuồng hoa
Không được đi rải truyền đơn, song Mỹ Nhung vẫn không chịu lùi bước. Nhân lúc có người chèo đò ngang sông, cô liều nhảy xuống xin quá giang để được đi “chiến đấu”. Bà cô bắt đi lên, nhưng cô nhất định ở lại và tìm kế... trốn. Mãi rồi cũng lần mò được ra chiến khu, cô tiếp tục tự đi tìm tổ chức.
Khi thực sự trải qua ranh giới khốc liệt giữa cái sống và cái chết, cô mới hiểu rằng khoảnh khắc “đẹp hơn tiểu thuyết” ấy chỉ là phút giây thăng hoa tột đỉnh của một chuỗi dài gian nan, nguy hiểm đến chết người.
Tại đây, sau khi tìm được người chị gieo “chùm hoa” truyền đơn cũ, cô xin được một công việc rất vinh quang của tuổi 16. Đó là hằng ngày, bé Mỹ Nhung phải tập... dậy sớm và học bơi xuồng. Sướng quá, cô tiểu thư vốn quen được chiều chuộng gật đầu nhận ngay.
Thế là từ đó, cứ sáng sớm, cô lại đẩy xuồng ra giữa dòng sông, tập bơi, tập lái. Nhưng với cô, chèo xuồng khó đến độ cô toàn lóng ngóng để nước tràn vào trong. Dưới ánh nắng lung linh, xuồng của cô cứ quay tròn trên mặt nước. Chẳng biết làm sao, cô đành ghé tạm bên những bụm hoa trôi, vừa để neo xuồng tát nước, vừa tranh thủ... hái hoa rồi chất đầy lên khắp xuồng.
Đến khi biết chèo rồi, cô nhận thêm nhiệm vụ đưa cán bộ qua sông. Cứ mỗi khi nghe tiếng gọi “Mỹ ơi” (tên gọi thời ở chiến khu), cô lại tất bật đẩy xuồng ra giữa dòng đón cán bộ. Ở đây, cô đã gặp một con người mà đến tận bây giờ, cuộc đời của ông vẫn là kho bí mật chưa tiết lộ.
“Cuộc đời tôi có nhiều cái may mắn, thuở bé đã được gặp một trong những anh hùng tình báo vĩ đại nhất Việt Nam, lớn hơn thì làm đồng đội với chính họ: anh hùng Phạm Xuân Ẩn, anh hùng Tư Cang...”.
Những lần gặp gỡ của cô chỉ là khoảnh thời gian đưa người sang sông, nhưng đến tận bây giờ, khi chiến tranh đã qua thêm nửa cuộc đời nữa, ấn tượng của cô về người cán bộ đó vẫn còn nguyên vẹn.
“Buổi sáng đầu tiên đưa anh đi, nhìn anh cười, tôi tin anh ngay lập tức. Anh không đẹp, mắt lé, da ngăm ngăm, nhưng nụ cười của anh thì luôn nói với mọi người rằng, anh là người tốt”.
Thế rồi sáng nào cũng vậy, ông được cô bé Mỹ Nhung chở đi trên chiếc xuồng bé xíu chất đầy hoa. Đến khi chiều xuống, ông trở về, trên tay luôn là một bó hoa rừng nho nhỏ. Cô không biết ông đi đâu, làm gì, nhưng nhìn là biết chặng đường của ông dài tới cỡ nào, bởi khi được tặng cho cô thì bó hoa đã rủ héo.
Nhận hoa, cả cô và ông cùng cười. Những bông hoa ấy sau này cứ cuộn hương đi theo cô trong suốt hành trình bí mật. Nó giống như sợi dây nối thiêng liêng giữa những người đồng đội: họ thậm chí có thể tìm thấy nhau, nhận ra nhau chỉ trong linh cảm. (Trong các loạt bài tiếp theo, VietNamNet sẽ tiếp tục công bố những bí mật về chân dung và tầm vóc của người anh hùng vĩ đại này).
Hai năm sau, khi vừa tròn 18 tuổi, cô được kết nạp Đảng. Cũng trong năm đó, ba cô trở thành Đảng viên. Nhớ lại giây phút biết tin ba cũng vào Đảng, cô vẫn cười tinh nghịch. “Ông cụ theo lễ giáo nhà Nho, rất nghiêm khắc nhưng cũng rất dân chủ với các con. Ngày ba cô được kết nạp, cô cứ chọc ba hoài, vì ba con lại cùng một năm tuổi Đảng”.
Ba cô, dù đứng trong hàng ngũ tư sản, nhưng ông chưa bao giờ quên nói với các con về quê hương, về dân tộc, về những người cùng khổ. Với cô, ông là hình mẫu lý tưởng còn trên cả tiểu thuyết, bởi ông luôn hướng cô đi theo những con đường thiện trên đời.
Đường về với Cách mạng
Những năm đầu 1940, đất Sài Gòn rất quen thuộc với tiệm vải Tân Mỹ. Chủ cửa hàng, ba cô – ông Nguyễn Đăng Phong – vốn là người Kinh Bắc. Sau khi đưa cả gia đình vào Nam lập nghiệp, chỉ trong một thời gian ngắn, lòng đại hiệp và khả năng kinh doanh nhanh nhạy của ông đã biến Tân Mỹ thành một thương hiệu có tiếng thời bấy giờ.
Ngày đó, gia đình cô sống cạnh nhà hai “đại gia” nổi tiếng - một người Hoa, một người Ấn - trên đường Gia Long (Lý Tự Trọng ngày nay). Khi hè sang, ba mẹ cô thường đưa các con về “nhà mát” ở Bạc Liêu chơi. Gọi là “nhà mát” bởi đó là nhà chỉ để... nghỉ mát. Căn nhà nằm ngay cạnh tư dinh của ông Hội đồng Trạch – gia đình bên chồng của “người đẹp Tây Đô” Lâm Thị Phấn.
Gia đình Tám Thảo
Sống giữa toàn các bậc đại gia và những người ngoại quốc giàu có, gia đình cô rất hiểu cái màu ẩn phía sau đồng tiền. Thế nên ba mẹ cô luôn hướng ngược về những người đồng bào đói khổ.
Mỗi khi vợ chuẩn bị sinh, ông lại đưa bà về Bắc để cho các con được chào đời và được ngấm cái hồn thiêng của quê cha đất tổ. Chính vì thế, đến bảy mươi năm sau, các con ông, cứ ai có dịp ra Hà Nội lại nhất định phải về thăm quê cũ, dẫu cho ở đó chỉ còn vài mảnh ký ức rất xa xăm.
Năm 1945, nghe theo lời kêu gọi của cụ Hồ, mẹ cô góp toàn bộ đồ nữ trang bằng vàng cho cách mạng. Đến khi Tây về (23/9/1945), gia đình cô phải tản cư vào Vĩnh Hưng, giáp với Cần Thơ. Biết nhà cô giàu có, ba má quan hệ rộng, quen biết từ tỉnh trưởng cho tới địa chủ nên tụi quan Tây treo giá 5.000 đồng để kiếm ba cô về theo chúng.
Ngày đó, cô bé Mỹ Nhung còn nhỏ, đâu biết 5.000 là giá làm sao, chỉ nhớ khi em cô đòi ăn khoai lang, má liền cho 1 hào. Bé em mang 1 hào đi đổi lấy 1 củ khoai lớn mang về, khiến cô bán hàng phải sấp ngửa đuổi theo để... thối lại tiền.
Nhưng tới năm 1946, trên đường về Sài Gòn trị bệnh, ba cô bị chỉ điểm bắt. Biết tính ông cụ ngang tàng, không chịu luồn cúi nên quan Tây nghĩ ra một chiêu độc để moi tiền. Chúng lôi người bà con của gia đình ra đánh cho hộc máu mũi ngay trước mặt ông. Thương quá, ba cô liền nộp 12.000 đồng tiền Đông Dương để chuộc. Còn với những người ở chung, hễ cứ ai bị mất gì thì ba má cô lại đền giúp.
Đến khi cạn túi, ba cô đành trở về Bắc Ninh cùng hai cô con gái út. Mỹ Nhung và các anh chị khác tá túc tại Vĩnh Long với người họ hàng. Cái duyên đưa cô tới Vĩnh Long để làm nghề tình báo bắt đầu từ những chuyện gập ghềnh như vậy.
"Tổ Quốc là trên hết"
Sau này, trong những ngày ở chiến khu, cô thiếu nữ Sài Gòn đã rung động trước một người lính cũng mê văn học không kém. Thời ấy, “thơ ca thúc đẩy sự nhiệt huyết của tôi nhiều lắm”. Ở chỗ cô, ai cũng thuộc lòng khổ thơ đầu của Tố Hữu:
“Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cổ súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa”
“Vâng, thế em ở lại. Tổ Quốc là trên hết”
Nhưng thơ ca thôi cũng không đủ làm cho chiến tranh dừng bước. Yêu nhau không được bao lâu, ông phải đi tập kết. Ngày ông lên đường, cô hớt hải chạy đi tìm. Song nỗi trớ trêu của tiểu thuyết cũng chẳng từ cô: khi Mỹ Nhung vừa đến thì ông lại vừa đi.
Hai người không kịp nói với nhau dù chỉ một lời tạm biệt, để rồi suốt gần 20 năm sau đó, hình ảnh của ông cứ không thôi ám ảnh trong cô.
Năm 1954, khi Hiệp định Geneve được ký kết, cô liền xin tập kết ra Bắc để gặp người yêu. Nhưng ông Mười Hương - chỉ huy của cô bấy giờ - thuyết phục cô ở lại, bởi người thầy tình báo ấy rất hiểu, trong cô còn có một tình yêu lớn nữa: tình yêu Tổ Quốc.
Ông còn hiểu rõ, nếu cô ra đi, cuộc chiến trong Sài Gòn sắp tới có thể sẽ khốc liệt hơn, bởi không dễ gì tìm ra một gia đình tư sản yêu nước ngay trong nội thành như vậy. “Em mà ra Bắc, không ai liên lạc được với gia đình thì cơ sở mất một căn cứ tốt”.
Nghe vậy, cô đắn đo một lúc rồi trả lời: “Vâng, thế em ở lại. Tổ Quốc là trên hết”.
Kỳ 3: Đồng đội, duyên phận và những ám ảnh cuộc đời
Gia đình Tám Thảo và Hai Trung quen nhau từ sớm. Biết nhau từ thuở ngoài 20 nên chị em cô gắn bó với Hai Trung rất sâu sắc. Ông vừa là chỉ huy của chị em Mỹ Nhung - Mỹ Linh, vừa là thầy dạy Anh văn, lại vừa là người anh lớn.
Mỹ Nhung về Sài Gòn, cô được chỉ huy giới thiệu với nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (Hai Trung), trở thành học trò của ông, để rồi từ đó, khi ông mới từ Mỹ về, cô lại là người đưa ông trở lại với tổ chức - Ảnh: Tư liệu
Sau một thời gian “thầy Hai Trung” hướng dẫn, chị em cô nói tiếng Anh rất khá, đặc biệt là cô em Mỹ Linh. Chính vì thế, để phục vụ cho cách mạng lâu dài, tổ chức từng định đưa Mỹ Linh đi học ở Anh, còn Hai Trung đi học ở Mỹ. Nhưng thời gian xa cách 4-5 năm khiến Hai Trung hơi ngại ngần.
Năm 1957, trước khi quyết định sang Mỹ, Hai Trung còn tìm đến nhà Mỹ Nhung để xin ý kiến ba cô, bởi ba cô cũng là người rất có ảnh hưởng tới Hai Trung. Chẳng rõ ông đến có phải để mong chờ một ánh mắt nào không, chỉ biết rằng đã có thời, sự thân thiết của ông với gia đình đã khiến cho người chỉ huy Mười Hương phải gợi ý: Nếu được thì cứ làm... rể gia đình luôn.
“Tôi biết anh Ẩn thương em Mỹ Linh lắm, nhưng Mỹ Linh không chịu”, cô nhớ lại. Cô bé kế sau của cô muốn được vào chiến khu, tự mình đóng góp cho cách mạng chứ không muốn trở thành cái bóng của bất kỳ ai.
Sau này, khi đã trở thành ký giả nổi tiếng, ông Ẩn vẫn thường xuyên đến thăm gia đình Mỹ Nhung dưới vỏ bọc là đi... tán các tiểu thư trong nhà, vừa để giao tài liệu, vừa có thêm bạn chuyện trò.
Thế nên duyên chị chưa trọn thì lại kéo theo duyên em không thành. Kế sau Mỹ Linh là cô Lan. “Bé Lan thì thương anh Ẩn dữ, vì anh là người tốt, lịch thiệp mà lại giản dị, chẳng bao giờ tính toán tiền nong”. Nhưng ngày đó Lan còn quá nhỏ, Hai Trung chỉ thương như em gái mà thôi.
Năm 1962, Mỹ Linh vào rừng, trực tiếp làm người dịch tài liệu cho căn cứ miền. Cô được đổi tên thành Chín Chi, bởi chị cô - Mỹ Nhung - đã được đổi tên thành Tám Thảo.
Cũng trong năm đó, Hai Trung lập gia đình. Lan buồn lắm, nhưng dẫu mỗi người mỗi nơi thì tình cảm của ông với gia đình vẫn còn nguyên vẹn.
Người đẹp trên tuyến lửa
Năm 1960, trước khi phong trào Đồng khởi bắt đầu, trung ương yêu cầu cục tình báo tìm hiểu các chiến lược đối phó của địch để đề phòng bất trắc. Lệnh được truyền đi, ở trong nội thành, Hai Trung nhanh chóng tìm ra tài liệu và chụp thành 20 cuộn phim, giao cho Tám Thảo.
Mỹ Nhung thời trẻ- Ảnh: Tư liệuTha thướt trong tà áo dài, Tám Thảo bắt xe ra ngoại thành chuyển tài liệu. Ở đó, cô liên lạc được với bà Bảy Huê – cũng là con một nhà tư sản nổi tiếng. Hành trình của cô không quá dài, nhưng để vượt được quãng đường nhỏ từ nội thành ra ngoại ô thì thực sự khủng khiếp.
Lần nào, đi đâu, cô cũng đều phải vượt qua chỗ bót canh của lính. “Tôi rất sợ cái chỗ đó, vì đã đi qua thì chết là chuyện bình thường”.
Nỗi nguy hiểm để có thể chết chính là ở chỗ, nơi cô tới toàn những nhà nông dân, mà theo lệ thường thì nông dân chỉ mặc áo bà ba. Một mình cô, áo dài tóc vấn, ra giữa chốn đồng không mông quạnh, hẳn phải có vấn đề. Cô cũng có thể mặc áo bà ba, nhưng dáng vẻ của cô thì lại đài các quá, dùng không hợp.
Hơn thế nữa, nếu mặc bà ba ra khỏi thành thì khi về cô sẽ khó trở lại, bởi tiểu thư Sài Gòn trở về từ ngoại ô trong chiếc áo bà ba thì có nghĩa là sao? Vậy nên mỗi lần đi liên lạc, cô lại trở thành tâm điểm dò xét của tụi lính. “Nếu mất bình tĩnh là chết như chơi”. Nhưng trí thông mình và khuôn mặt thánh thiện đã giúp cô nhiều lần thoát chết.
Suốt từ năm 1960 đến năm 1966, cô đi lại như con thoi từ Sài Gòn xuống Củ Chi, Hoóc Môn, Phú Hòa Đông, Tây Ninh rồi lại về thành phố. Những tài liệu mà cô chuyển ra đều do Hai Trung khéo léo lấy từ trong lòng địch, như tài liệu về những kế hoạch đối phó trước các cuộc tấn công của ta, tài liệu của Mỹ hướng dẫn cho quân đội Cộng hoà về kỹ thuật và thủ thuật chống nổi loạn, tài liệu liên quan đến Chiến tranh Cục bộ năm 1965...
Có lần, trên chuyến xe đò đi ra cứ, cô cùng tất cả hành khách bị chặn lại ngay tại bót canh. Nhanh trí, Tám Thảo tự tách khỏi đoàn người đang phải khám xét tùm lum, chạy ra đứng nói chuyện với viên chỉ huy cao nhất.
Chuyện trên trời dưới biển, chuyện văn chương thi phú, chuyện về “người dì tư sản” ở ngoài mà cô phải đến thăm khiến cho viên chỉ huy cứ phải cười ngoác miệng. Thế là, trong khi cả chiếc xe bị lục soát tứ tung thì cô cùng chiếc giỏ tài liệu lủng lẳng trên tay lại an toàn tuyệt đối, ngay bên cạnh... viên chỉ huy tít mắt cười. Đến khi lục soát xong xuôi, tụi lính cho xe lên đường, cô cũng nói lời tạm biệt.
Nhưng chưa hết, bỗng nhiên ngay lúc ấy, một tên lính gọi giật lại: “Ủa, cô kia, xét chưa?” Cô mỉm cười rất tươi, quay sang viên chỉ huy bảo: “Chưa, nói chuyện với anh vui làm tôi quên khuấy mất. Anh xét đi!” Nói rồi, cô thẳng tay chìa cái giỏ hàng “chết người” về phía chúng. Viên chỉ huy vội xua tay lắp bắp: “Thôi, cô lên xe đi. Cô đi đường cẩn thận đó”.
Vẫn bình tĩnh nở thêm một nụ cười tạm biệt, cô nhẹ nhàng bước lên xe, tiếp tục cuộc hành trình ngàn cân treo sợi tóc. Cô biết, đằng sau cô là rất nhiều chiếc xe đang chờ xét. Nếu cứ lục soát kỹ, tụi lính cũng oải vì lấy đâu ra thời gian. Hơn nữa, làm cái nghề “cú vọ” này, bà con trên xe ai chẳng ghét. Cô hiểu điều đó nên căn giờ “buôn chuyện” chính xác và tỉnh táo đến mức không để lại chút nghi ngờ.
Biết mình thông minh nhưng cô cũng không dám đùa với “lửa”, bởi trong tay cô không chỉ là tính mạng của mình mà còn là số phận của cả gia đình, của “anh Ẩn” và của những người khác. Vì thế, những lần sau đó, cô đã rút kinh nghiệm hơn.
Mỗi khi lên xe “thăm bà dì”, theo lời khuyên của chỉ huy và cả... ông chủ xe đò, cô không bao giờ chọn ngồi ghế đầu nữa. Đến khi qua trạm gác, cô cũng đều ý tứ... quay mặt đi, nếu không, theo lời các ông, “thấy cô đẹp quá, tụi lính bắt dừng xe lại để... hỏi han thì phiền”.
Ám ảnh một ánh mắt
Một lần, đích thân ông Ẩn lái xe đưa cô ra ngoài Củ Chi. Trước khi chuyển sang chiếc xe khác để về căn cứ, cô ngoái lại chào tạm biệt người đồng đội chu đáo ấy. Bất ngờ, lần đầu tiên trong đời, cô bắt gặp cái nhìn của ông đầy day dứt. Nỗi băn khoăn về đôi mắt khó tả đó vẫn ám ảnh cô cho đến tận bây giờ.
2 chị em Mỹ Nhung và Mỹ Linh tại tư gia tháng 4/2007
Với ông, có những điều cô không bao giờ hỏi, và với cô, có những điều ông cũng không ba o giờ nói. Nguyên tắc nghề nghiệp khiến cho những người bạn, người đồng chí chỉ có thể giao tiếp với nhau bằng linh cảm.
Hôm nay đây, khi ông đã qua đời, mang theo cả bí mật của đôi mắt để trở về với đất, nhưng mấy ai biết rằng, trong cả cuộc đời làm nên những kỳ tích như huyền thoại, đã bao lần ông phải đối mặt với phút giây ân hận với chính mình. Đồng đội của ông – Tám Thảo, Tư Cang, Ba Già, Hai Thương... – chưa bao giờ sợ bước chân vào cõi chết, họ hiên ngang đối mặt với họng súng thù để giữ gìn mạng sống cho ông và cho dân tộc.
Trong những dòng tự thuật về “khuyết điểm” của mình sau này, ông cũng đã tự “sỉ vả” mình không ngớt: chỉ vì không tính toán nên Hai Trung cứ để nguyên phim chưa tráng cồng kềnh, hay đưa hàng chục trang tài liệu cồm cộm không xử lý ra chiến khu, gây biết bao nguy hiểm cho anh chị em giao thông.
Đi giữa hai làn sống chết mong manh, chỉ một chút sơ suất thôi là một con người, thậm chí là một gia đình, phải đổ máu.
Vì lẽ đó, mỗi khi đứng trước những đồng đội của mình, người anh hùng vĩ đại luôn thấy mình quá bé nhỏ. Ông hiểu, chính những dáng người mảnh mai đang đi về tuyến lửa kia mới là những người làm nên chữ “anh hùng” trên ngực áo của con người được phong là “huyền thoại”.
Với vẻ đẹp sang trọng, thông minh và vỏ bọc gia đình giàu có, cô lần lượt vượt qua những vòng thử thách khó khăn, thậm chí cả “chạy tiền” cho sĩ quan cấp dưới, để lọt được vào vị trí phiên dịch cho thiếu tá Tình báo Hải quân Mỹ, cố vấn của Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hoà.
Trong mắt lính Cộng hoà, Mỹ Nhung là kiểu con nhà giàu đi làm để kiếm chồng quan to
Lúc này, nhiệm vụ của cô đã bắt đầu chuyển sang giai đoạn khác. Hàng ngày, cô đến sở, dịch tài liệu ngược xuôi về tin tức tình báo hải quân cho “sếp”. Đến khi Đảng yêu cầu lấy tài liệu ra, để tránh nghi ngờ, nếu tài liệu bằng tiếng Việt thì cô lại dịch sang tiếng Anh rồi mang về nhà cho ông Tư Cang... dịch lại.
Thỉnh thoảng, thời gian cần kíp, cô “cầm tạm” luôn tài liệu về nhà vào đúng giờ nghỉ trưa để cho anh Tư trên lầu chụp. Đến khi phiên làm việc chiều bắt đầu thì tài liệu cũng đã nằm gọn gàng trở lại. Nhiều lúc, gặp những tài liệu không thể mang về, cô buộc phải tự nhớ trong đầu rồi về tóm lược cho chỉ huy lưới.
Cô hoạt động trong suốt thời gian dài mà không để lại một mảy may nghi ngờ nào. Thậm chí, có lần mải nói chuyện say sưa, cô còn sơ ý hỏi viên chỉ huy: “ủa, sao đồng chí nói vậy?”. Cũng may, anh chàng tưởng cô nhại “giọng Việt Cộng” để bông lơn nên không thèm để ý.
Nhiều lần, thấy cô giải thích vanh vách thế nào là “ở trong R” (ở trong rừng, cách gọi của trung ương đầu não), tụi Mỹ rất ngạc nhiên, hỏi “sao cô như Việt Cộng vậy”? Cô thản nhiên trả lời: “Các ông coi kẻ thù là Việt Cộng, tôi làm việc cho các ông thì tôi phải nghiên cứu giùm các ông chứ”.
Hai chị em Mỹ Nhung và Mỹ Linh thời trẻ- Ảnh: Tư liệu
Tuy nhiên, bên cạnh cái vẻ phớt Ăng-lê như thế, cô vẫn luôn phải thận trọng để giữ kín bình phong. Thỉnh thoảng, cô còn đi du lịch trong và ngoài nước, khi thật khi giả, để tránh sự nghi ngờ của địch mỗi lúc có chuyện phải vào rừng đột xuất.
Thậm chí, cô còn được ngưỡng mộ là người... chịu chơi, bởi lương tháng có 800 đồng mà dám chi vài ngàn chỉ để đi nghỉ ở Pháp.
Vì lẽ đó, trong mắt lính Cộng hoà, cô là kiểu con nhà giàu đi làm để kiếm chồng quan to, còn trong mắt bà con hàng xóm, cô là kiểu phụ nữ ôm chân Mỹ mơ giấc mộng nhà lầu. Cô biết vậy mà chẳng cần thanh minh, thậm chí còn tỏ ra rất “chảnh” để giữ an toàn.
Chỉ đến khi nào còn lại một mình với ba, cô mới thoả lòng khóc và kể cho ba nghe những gì còn ấm ức, bởi chỉ có ba cô là người thương và hiểu cô nhất.
Quyền năng của người đẹp
Làm việc ngay trong lòng địch, sơ hở một phút là chết liền, thế nên nguyên tắc đầu tiên của cô là phải sống thật. “Nếu không sống thật thì mình sẽ chết thật”. Chính vì thế, không ít lần cô đập bàn, nổi nóng, thậm chí giang tay tát thẳng vào mặt tên sĩ quan chỉ vì dám nói năng sàm sỡ.
Trong mắt bà con hàng xóm, cô là kiểu phụ nữ ôm chân Mỹ mơ giấc mộng nhà lầu
Cô kể, hồi sau Mậu Thân, có viên sĩ quan Mỹ mới sang nên sợ Việt Cộng lắm. Anh ta dò hỏi ông trung tá trưởng phòng là sao cô giống Việt Cộng vậy, bởi thấy cô nói năng chẳng ra vẻ sợ gì? Ông trung tá gạt phắt ngay: “Trời, tính cô vậy đó, nào có sợ ai. Gia đình cô ấy giàu lắm, đâu cần tiền”. Thế rồi, ông ta tuôn ngay một kỷ niệm “kinh hoàng” về người đẹp.
Bữa đó, ông ta kêu cô làm thêm giờ, nhưng cô không làm. Cô bảo: “Tôi phải về chơi, nghỉ ngơi với gia đình”. Nói kiểu gì cô cũng không nghe, ông trung tá giận lắm, vỗ bàn đánh đốp một cái, quát lên: “Đi làm có thêm tiền, tại sao cô không đi?”.
Cũng không vừa, cô đứng phắt dậy, đập bàn đánh đốp thêm cái nữa, rắn rỏi trả lời: “Ông có ngày chủ nhật của ông, tôi cũng có ngày chủ nhật của tôi. Tôi không cần tiền thêm giờ của ông, tôi cần thời gian ở với ba mẹ”.
Sợ quá, ông trung tá im liền. “Bà chằn này chịu chơi như vậy, không bao giờ có thể là Việt Cộng đâu”.
Bận khác, một viên trung sĩ coi bảng lương vốn ghen ghét cô vì thấy người đẹp cứ đi chơi hoài mà vẫn được sếp cưng, thậm chí có hôm 9 giờ cô mới tới. Hôm nào mà cửa hàng đông khách, cô còn nghỉ tít luôn ở nhà để giúp mẹ.
Phải chấm công nên anh chàng ức lắm, một hôm chờ đến buổi giao ban mới hất hàm hỏi: “Nè, giờ giấc của cô thế nào đó? Tại sao 9 giờ chưa có mặt, 12 giờ đã thấy mất tiêu. 3 giờ chiều mới thèm tới sở?”.
Cô thản nhiên trả lời: “Sao anh hỏi tôi? Tôi đi thông dịch cho sếp, anh muốn biết thì hỏi sếp tôi đó”. Nói rồi cô quay đi, biết chắc rằng viên trung sĩ chẳng bao giờ dám mở miệng hỏi quan thầy Mỹ. Mà cho dù hắn có hỏi thì cô cũng chắc chắn sếp sẽ bênh cô, bởi cô biết tính ông ta, chỉ cần làm hiệu quả chứ đâu ngồi tính thời gian.
Dần dần, cô càng củng cố hình ảnh về mình: một tiểu thư nhà giàu, đi làm chỉ vì mê Mỹ và thích khoe sắc khoe tài mà thôi. Ai biết đâu rằng, những ngày nghỉ cô không thèm làm thêm là để dành thời gian ra căn cứ, còn những lúc đi muộn về sớm là khi cô phải làm nhiệm vụ đột xuất, hoặc chờ cho người chỉ huy Tư Cang sao chép hết tài liệu để gửi đi cho kịp giờ.
Còn viên trung sĩ, nuôi cơn ấm ức trong thời gian dài, có bữa mới quyết định “trả đũa”. Một hôm, cô phải chuyển một lá thư của sếp sang cho anh chàng. Thấy bàn anh ta để tùm lum bừa bộn, cô hỏi đặt đâu bây giờ.
Tám Thảo thời trẻ- Ảnh: Tư liệu
Anh chàng mới học được non nửa “ngón nghề” của cô nên cũng ra bộ kênh lắm, đáp thọt lỏn “để thùng rác đó”. Lập tức, cô xé toẹt cái bao thơ ra rồi ném thẳng vào thùng rác, nói ngắn gọn: “Tui bỏ đó đó” rồi đóng cửa cái rầm.
Về phòng họp, cô tới gặp thẳng sếp, kể lại chuyện rồi nhẹ nhàng: “Tui xin lỗi, ông vừa ký chưa ráo mực mà tôi đã làm vậy là khiếm nhã”. Viên thiếu tá Mỹ vội xua tay: “Không sao đâu, cô làm vậy là rất đúng”.
Ở bàn bên kia, cô thư ký người Việt kéo vội cô ra góc, thì thầm: “Thôi chị ơi, em làm cho chị cái khác nha, lúc đó chị điên cái đầu hay sao?”. Cô trả lời: “Nó điên cái đầu chứ tao điên à?”. Viên thiếu tá biết cô vẫn đang giận nên xuống giọng: “Cô đừng bực, để đó tôi ký lại cho”.
Xong xuôi, cô lại đem thơ xuống, hỏi: “Bây giờ tôi để đâu?”. Anh ta chỉ tay lên bàn rồi thẽ thọt: “Cô để đâu cũng được”.
Sáng tình báo Việt cộng đưa đi, chiều tình báo Mỹ rước về
Trước ngày cô Tám Thảo xin cho Tư Cang về nhà, ba cô cũng nghĩ ngợi ghê lắm. Trong nhà vốn toàn các cô chưa lập gia đình, tiêu tiền kiểu tư sản, nay tự nhiên lại xuất hiện một anh lính ở rừng về, chưa biết hoạ phúc ra sao.
Tám Thảo, người phụ nữ nổi tiếng với việc sáng tình báo Việt cộng đưa đi, chiều tình báo Hải quân Mỹ rước về
Ông cụ vẫn còn nhớ, gần hai chục năm trước đó, ngày cô xin đi vào chiến khu làm cách mạng, sợ ba gặp khó khăn, cô liều bảo: “Con đi vào rừng không có nhà. Nếu ai làm khó dễ ba, ba cứ bảo là con mê thằng nào rồi theo nó bỏ đi Nha Trang, Đà Lạt nha. Vậy nên ba tức chuyện, ba từ con luôn, nói thế cho an toàn”.
Khác với mọi khi luôn gật đầu vì cưng chiều con gái, lần này, ông nhất định không chịu: “Đâu có được, con gái của ba, không bao giờ ba bêu tiếng xấu như vậy. Con cứ đi, để ba ở nhà tuỳ cơ ứng biến”.
Nhưng lần này, câu chuyện lại hoàn toàn ngược lại. Tám Thảo vẫn ở trong nhà, chỉ có điều, thêm một người đàn ông đến tá túc. Ngẫm ra, chuyện đó chẳng có vấn đề gì, tình thương của ông đối với cán bộ đã giúp ông gạt phăng hết ngại ngần.
Về ở với gia đình ông, “thằng Tư” sẽ bớt đi nhọc nhằn, nguy hiểm. Trong khi chiến tranh đang leo thang, tài liệu mật càng nhiều, nếu cứ đi đi về về thì sẽ còn nguy hiểm nữa.
Vậy nên không cần đợi cô thuyết phục, ông gật đầu đồng ý. Với vỏ bọc “anh rể thứ tư” mới trở về, từ hôm đó, cứ sáng ra, “anh Tư” đưa Tám Thảo đi làm. Chiều về, viên thiếu tá Mỹ lại chở cô về tận cửa. Bà con hàng xóm cũng có người tò mò, nhưng tiểu thư Mỹ Nhung nổi tiếng vừa đoan trang vừa kiêu kỳ nên chẳng ai dám lời ong tiếng ve.
Tiểu thư Mỹ Nhung từng nổi tiếng vừa đoan trang vừa kiêu kỳ đất Sài Gòn là vỏ bọc tốt cho Tám Thảo hoạt động trong lòng địch.
Một bữa, trên đường tới sở, tự nhiên nghĩ ra điều hay, cô kều tay nói giỡn với Tư Cang: “Anh Tư nè, em nghĩ đời mình cũng hay thiệt nghe. Sáng thì thiếu tá tình báo Việt cộng chở honda đi làm, chiều thì thiếu tá tình báo Mỹ xách bỏ lên xe jeep chở về. Anh bảo có ai được như vậy không?”.
Nghe cô cười khanh khách, ông thiếu tá Việt cộng cứ nghĩ mà xót xa. Khi ấy, cô đã gần 40 nhưng vẫn quyến rũ đến chết người. Bao nơi muốn mối lái, vậy mà cô cứ mải mê đi “làm Việt cộng”, chẳng hề tính đến hạnh phúc trăm năm.
Thời đó, có những lúc cũng có người gợi ý, sao hai người ở gần mà không cưới nhau đi, tạo luôn cái vỏ bọc hợp pháp cho an toàn? Nhưng cô chỉ điềm tĩnh bảo: Anh đã có vợ, còn chúng tôi lại chỉ là đồng chí, làm sao có thể yêu nhau theo cái kiểu lửa gần rơm lâu ngày cũng bén được vậy?
Cứ như thế, suốt từ năm 1966, trong ngôi nhà tư sản toàn tiểu thư xinh đẹp, có một ông nông dân chính hiệu ra vào. Với gia đình cô, chưa bao giờ ông là người lạ, dù cho lối sống đã quen kham khổ của ông rất khác xa với gia đình.
Tình quân dân, tình đồng chí lúc này là trên hết, vì có gì lạ đâu: cô và ông đều là người Việt, đều đang chiến đấu cho Nam Bắc một nhà!
Hai phát súng sinh tử
Đêm 31/1/1968, cuộc tổng tiến công Mậu Thân bắt đầu. Đã biết qua từ trước nên cả gia đình đều sẵn sàng chuẩn bị tinh thần.
Trước đó, theo yêu cầu của cấp trên, cô đã kịp chuyển tài liệu bố phòng quân sự tại Bộ Tư lệnh Hải quân ra ngoài căn cứ để làm sơ đồ cho biệt động Sài Gòn tấn công.
Đêm về, trong ngôi nhà bề thế nằm giữa trung tâm thành đô, cô có thể nghe tiếng súng nổ và quan sát những nhánh quân đang di chuyển về phía dinh Độc Lập. Lực lượng mỏng, gặp phải trục trặc ban đầu, đội biệt động Sài Gòn ngay khi vừa tấn công đã gặp phải sự kháng cự quyết liệt.
"Tình quân dân, tình đồng chí lúc này là trên hết, vì có gì lạ đâu: cô và ông đều là người Việt, đều đang chiến đấu cho Nam Bắc một nhà!" - hơn 30 năm trước, Tám Thảo đã nghĩ như vậy về thủ trưởng Tư Cang của mình
Rạng sáng ngày mồng 1 Tết, địch được chi viện thêm lực lượng. Các chiến sĩ biệt động phải mở đường máu thoát ra ngoài và cố thủ tại một toà nhà còn đang xây dở. Cuộc chiến giằng co đến vài ngày. Đội biệt động của ta rơi vào tình cảnh nguy cấp. Khắp nơi, lính Cộng hoà bao vây kín cả trên trời dưới đất. Cả lính Mỹ và lính Đại Hàn tăng cường vây bủa.
“Suốt 2-3 ngày liền, hai anh em cứ nằm bò trên gác để theo dõi mà không thấy chiến sĩ nào thoát ra”. Tiếng súng trong toà nhà thì cứ ngày một thưa dần rồi yếu hẳn. Linh cảm thấy đồng đội đang gặp nguy hiểm, cô quyết định: chia lửa cùng anh em.
Nhìn quanh trong số những tên lính đang vây ráp, thấy có cả toán lính đánh thuê Đại Hàn, Tám Thảo giục anh Tư: Bắn!
Nhưng Tư Cang là chỉ huy lưới khi đó. Nhiệm vụ của ông là nằm vùng để chỉ huy và giúp đỡ nhà báo Phạm Xuân Ẩn chứ không phải chiến đấu trực tiếp. Hơn nữa, nếu bị lộ, không chỉ mình ông mà cả gia đình cô sẽ vào vòng tù tội, không chỉ cách mạng mất đi một cơ sở mà công sức gây dựng một lưới tình báo chui sâu leo cao trong lòng địch cả chục năm qua sẽ đổ sụp.
Ông băn khoăn ghê gớm. Nhưng Tám Thảo một mực giục ông: “Sao anh nỡ nhìn đồng đội mình chết? Mọi chuyện em sẽ lo, anh cứ bắn đi”.
Thế rồi, trước máu của đồng đội và nước mắt của cô, người anh hùng có tài bắn hai tay hai súng giương cao khẩu K54. “Đoàng, đoàng!” Hai phát đầu tiên, một tên chỉ huy Mỹ, một tên chỉ huy Đại Hàn ngã gục.
Phản xạ như chớp, Tám Thảo chạy nhanh xuống dưới tầng, chôn luôn mấy viên đạn còn lại cùng 2 vỏ đạn vào đống rác để đề phòng lính kéo đến lục lọi. Xong xuôi, cô cũng kéo luôn ông xuống nhà, giấu ông vào phía sau căn gác xép chứa đầy vải vóc, nơi để tài sản buôn bán của gia đình.
Còn tụi lính, ngay khi nghe tiếng súng nổ, đã hô lên ầm ĩ “có Việt cộng”. Chúng chia người bủa vây khắp nơi, đập cửa nhà cô ầm ầm. Trời tối, cô vừa giả bộ tìm chìa khoá để kéo dài thời gian, vừa nghĩ nhanh cách ứng phó với tụi lính.
Tới khi chúng xộc vào trong thì ba cô cũng đã gọi tất cả 8 người dậy, lấy nước mời chúng uống. Nhìn phong cách gia đình lịch thiệp, lại thêm các cô gái trẻ đẹp, tên chỉ huy bắt đầu hạ giọng. Nhưng chúng vẫn toả đi sục sạo khắp góc nhà. Vừa tìm, chúng vừa quát hỏi để “nắn gân” mọi người.
Nhìn thấy mẹ cô, tên chỉ huy quát lớn: “Bà già, sao lại mặc đồ trắng thế kia?” (vì ngày đó các cụ hay mặc đồ đen). Mẹ cô - do đã chuẩn bị tinh thần từ trước - nên từ tốn trả lời: “Tôi không biết nữa, thích thì mặc t hôi”. Nghe câu trả lời không chút bối rối, tên chỉ huy cười bảo: “Tôi giỡn bà già đó” rồi lại tiếp tục ngó nghiêng.
Chỉ đến khi nhìn thấy ảnh ông thiếu tá Mỹ rất đẹp trai mà cô treo đầu giường, hắn mới thật sự hạ nhiệt: “Ủa, ai đây vậy cô?”. “Sếp tôi đó”. Chỉ trong một giây, cô thoáng thấy vẻ bối rối ngại ngần của hắn. Nhìn quanh quất lấy lệ cho xong, tên chỉ huy xin lỗi rồi rút quân về.
Suốt từ năm 1966, trong ngôi nhà tư sản toàn tiểu thư xinh đẹp, có một ông nông dân chính hiệu ra vào. Với gia đình cô, chưa bao giờ Tư Cang là người lạ, dù cho lối sống đã quen kham khổ của ông rất khác xa với gia đình - Ảnh chụp tại tư gia Tám Thảo tháng 4/2007
Chỉ đến khi toán lính rút đi, cô mới nhận ra rằng, mình vừa đi qua cõi chết. Sau một hồi im ắng, ông Tư Cang từ trong nơi ẩn nấp bước ra, nghẹn ngào cảm ơn cô cứu mạng. Cô cầm tay ông rồi cứ thế oà khóc.
Bây giờ cô mới thực sự hiểu: Làm tình báo đâu phải bước đi trên nhung hoa, đâu giống như tiểu thuyết mà cô đọc đầu đời. Làm tình báo không bao giờ được mắc lỗi. Nhưng sẽ bi kịch thế nào khi phải nhìn đồng đội chết trước mắt mà không được nổ súng, nhìn đồng bào bị tra tấn dã man mà không được rơi lệ? Trong phút lâm nguy nhất, bản năng sống và tự vệ đã giúp cô đối đầu được cả toán biệt kích lăm lăm súng đạn.
Mấy ngày sau, cô đưa ông Tư Cang về căn cứ. Đối diện với nhà cô là nhà một tên chỉ điểm. Những ngày Tư Cang tá túc tại đây, hắn biết thừa cái “anh rể Tư” chỉ là vỏ bọc. Nhưng kỳ lạ ở chỗ, biết gia đình cô che chở cho cán bộ cách mạng, hắn cũng không tố cáo bao giờ. Có thời nhà hắn khó khăn chật vật nhất, gia đình cô vẫn thương tình giúp đỡ, cho mượn 100.000 để giúp vợ chồng làm ăn.
Sau này, khi đã dư dả, sống thêm bằng lương chỉ điểm, nhưng hắn vẫn luôn tôn trọng gia đình. Một người hàng xóm của cô có con rể làm đại úy cảnh sát, sau ngày giải phóng, cũng nói lại: “Tao biết hết việc làm của tụi bay nghe. Đứa này đi Nam, đứa kia về Bắc, nhưng tao có nói gì hết đâu”.
Mỗi lần nghe vậy, cô đều xúc động.
Trong chiến tranh nhân dân, nếu không có những người đồng bào thương yêu và kính nể mình thật sự, liệu cô có còn sống sót? Liệu ông Tư Cang có hoàn thành nhiệm vụ? Liệu Phạm Xuân Ẩn có trở thành anh hùng? Và liệu dân tộc này có thể giành chiến thắng?