Cốt truyện về thời Lý, lúc trước có viết ba hồi Thiên Nam Ngự Kiếm vì nhiều lý do phải dừng đột ngột, ba hồi đó cũng là một phần trong bộ truyện này.
Đi Tìm Bài Thơ Cổ
Tác giả: Hữu Phong
Hồi 1: Bình minh kỳ nhân có xuất hiện ?
Ẩn sau khung cảnh mờ ảo ấy, hiện ra hình bóng một người đàn ông cao ráo, dáng vẻ hiên ngang, bước chân càng lúc càng nhanh với cách di chuyển kỳ lạ khác người, thân ảnh người này chập chờn lên xuống như bay, như nhảy múa trong màn sương khói mịt mù, bí hiểm, xung quanh là sát cơ trùng điệp như cuồn phong loạn vũ thi nhau tung hoành ngang dọc.
Người này dừng lại, ánh mắt ẩn trong màn khói, sáng như tia chớp trời giông tố, từ đỉnh đầu đến gót chân mang cái khí khái như thần tiên đắc đạo, bất cứ ai gặp cảnh tượng này đều sinh lòng ngưỡng mộ mãi miết không thôi. Lớp sương khói dần tan, dung mạo dần hiện rõ, miệng kỳ nhân mấp mấy nói: “Tổ cha nó, phóng ngựa như ăn cướp, làm ông nội chúng mày phải ngửi bụi, quân trộm chó, ta mà bắt gặp thì đừng có trách là xui xẻo.”
Người này là một gã thanh niên có nước da đen cháy, nhưng nếu công bằng nhìn nhận thì mặt mũi gã không đến nổi nào, có thể liệt vào hàng mỹ nam ít thấy, đặt biệt ánh mắt gã sáng rỡ, đồng tử linh động, nhờ cái nền da mặt đen thui càng nổi bật thêm lên. Thanh niên này mặt bộ đồ xanh lam tối, chất liệu tầm thường, trên vai gã đeo túi vải thô to gần bằng lưng, trông dáng vẻ phong trần chắc đến chín phần là khách đường xa.
Thanh niên chửi đổng thêm vài câu, giọng nói khá đặc biệt, vừa giống thổ âm miền bắc lại xen lẫn chất giọng sang sảng vùng cực nam nơi đây, hít thở một hơi dài, gã cất chân mau mắn bước đi.
Được vài chục bộ, thanh niên phóng mắt ra đằng trước, nơi tầng tầng lớp lớp bụi mờ dần tan, gã bất thần sựng người, một thân ảnh vọt đến rất nhanh, chưa nhìn rõ người kia là ai, tai thanh niên đã nghe thấy tiếng nói.
“Ánh chớp băng ngang qua bầu trời.
Giông tố bao lần đến trong đời.
Bình mình kỳ nhân có xuất hiện?
Điềm báo anh tài quá xa vời!”
“Ha ha ha ha…”
Giọng ngâm thơ và tiếng cười vang vọng núi rừng là của một lão già không biết từ đâu lại xuất hiện, ông ta ăn bận bộ thanh y khá giống đạo sĩ hay pháp sư trừ tà, lưng mang tủ thuốc được đan bằng may, râu tóc ông ta bạc trắng, óng ánh như lụa, phản chiếu ánh nắng, nhưng lạ thay da mặt ông hồng hào phúc hậu chẳng có được bao nhiêu nép nhăn.
Thấy người đi ngược hướng trông giống như một ông bụt trong truyện cổ, thanh niên chẳng sinh lòng kính ngưỡng, gã còn lẫm bẫm: “Đúng là đồ điên mà, giả thần giả quỷ tưởng hay ho lắm sao, già rồi mà còn tào lao… hừ.” Nói rồi thanh niên tiếp tục bước đi qua mặt ông già. Chẳng hay biết ông ta đang quay lưng lại nhìn gã nhẹ nở nụ cười.
Đi thêm một đoạn độ nửa dặm (1), thanh niên lại nghe tiếng ngâm thơ quen quen.
“Ánh chớp đi ngang qua bầu trời.
Giông tố bao lần đến trong đời.
Bình mình kỳ nhân có xuất hiện?
Điềm báo anh tài quá xa vời!”
“Ha ha ha ha…”
Lúc đầu gã thanh niên hơi giật mình, nhưng nghĩ gì đó gã chợt mĩm cười rồi thản nhiên đi tiếp, chẳng đoái hoài đến ông già kia.
Lần này ông ta cũng quay đầu lại nhìn gã nhưng thay bằng một nụ cười là biểu hiện ngạc nhiên há hốc.
Đi một đoạn nữa trong khoảng thời gian bằng độ tàn một cây nhan, thanh niên lại nghe tiếng ngâm thơ bí hiểm thêm một lần nữa.
“Ánh chớp đi ngang qua bầu trời.
Giông tố bao lần đến trong đời.
Bình mình kỳ nhân có xuất hiện?
Điềm báo anh tài quá xa vời!”
“Ha ha ha ha…”
Thanh niên mĩm cười khẽ nói với ông già khi hai người gần giáp mặt nhau: “Thời tiết hôm nay đẹp quá phải không? Hì hì…” Ông già miễn cưỡng cười gật đầu nói “ừ…ừ” . Tiếp tục đi vài bước, ông ta quay đầu thì thấy thanh niên từ tốn rảo bước, chẳng có dấu hiệu sợ hãi hay bất ngờ gì cả, điều này làm ông ta nóng nảy vô cùng, nghĩ thầm: ”Lần này phải hiển lộ thần thông để thằng nhóc này biết mặt, dám khinh thường tiên gia hả? Hừ...” Cứ thế ông già lại đi ngược hướng với thanh niên kia, được một đoạn khoảng năm trượng, ông quay đầu nhìn thì vẫn thấy gã thanh niên vẫn thong thả bước đi, ông lẩm bẩm: “Đợi đó thằng nhóc con.” Nói rồi ông ta quẹo phải, khinh công lên những thân cây lớn của khu đồi núi quanh co, rồi quay theo đúng hướng thanh niên kia đi để đón đầu. Lão già tuy có tuổi nhưng thân pháp cực kỳ linh hoạt, lướt đi nhanh như gió, trong chớp nhoáng đã đi được hơn một dặm đường. Nhảy xuống đường, nhẹ nhép miệng cười ông ta lấy trong bọc ra một cái ghế kỳ quái chỉ có một chân dài được gắn với thanh đồng nặng ước chừng đến bốn mươi cân (2), lão nhanh tay lấy ra một cái cuốc nhỏ đào đất rồi chôn chân ghế chắn chắn, bộ áo ngoài rộng thùng thịch thì bao lấy mặt ghế, ông ta ngồi lên đó, vút chùm râu dài nửa gang cười đắt ý. Nếu người không biết tiểu xảo này sẽ tưởng rằng ông già kia một tay chống gậy xuống đất trong khi xếp bằng hai chân và thân người treo lơ lững.
Ông già nghĩ ngợi gì đó miệng cười thích chí, chờ chứng kiến gã thanh niên phải giật mình kinh hãi quỳ lạy lão, rối rít gọi ông bụt, ông tiên.
Trời bắt đầu nóng dần lên, sau thời gian dùng một bữa cơm, thì ông già đã không còn chịu nổi nữa vì phải đứng yên phơi nắng quá lâu trong bộ đồ dày cộm: “Kỳ quái thật ! Tên nhóc đó đâu rồi, sao đi lâu thế, lúc nãy ta thấy khả năng khinh thân của gã cũng khá … hay là té xuống núi rồi.” Nghĩ vậy ông ta vội chạy ngược lại nhưng cả một dặm đường chẳng thấy bóng dáng thanh niên kia đâu. Khi đến ví trí hai người gặp nhau lúc nãy ,ông nhìn thấy ở dưới đất có dòng chữ:”Lão già cà chớn ăn phân!” Bên cạnh ông là đống phân bò to tướng, ông lão tức khí, vận lực hùng hậu phóng chân như bay ngược trở lên, chạy cứ như không chạm đất. Độ một đoạn khoảng hai dặm, lão già cảm giác như mình đạp trúng cái gì đó trơn trơn rồi té lăn đập mặt xuống đường, khi đứng dậy thì mặt mũi trầy trụa hết vì chà xát xuống nền sỏi đá.
“Tổ sư hắn, cái thằng mất dạy, ta mà bắt được là ta cắt cái thằng nhỏ của mày để mang vô cung làm thái giám luôn… mẹ cha nó!” Lão già nhìn phía trước lại có dòng chữ: “Xin lỗi, cháu mời ông xơi chuối vậy…”, xung quanh có rất nhiều vỏ chuối . Ông già hét lớn lên :”Ối trời ơi ! Tức quá đi…hu hu hu hu…” Bỗng nhiên ông ta khóc bù lu bù loa lên như đứa trẻ nít, nếu ai chứng kiến cảnh tượng này chắc sẽ cười đến sái quai hàm mất thôi.
Gã thanh niên tất nhiên không bỏ lỡ trận cười này, gã nấp trên tán lá một thân cây bạch đàn lớn gần đó, vừa cười khúc khích vừa bịt miệng sợ lão già nghe thấy. Một lát sau lão bỏ đi, thanh niên xuống đường tiếp tục cuộc hành trình.
Đi hơn hai dặm, gã thanh niên thấy trước mắt là bốn con ngựa lúc nãy, thủ phạm khiến thân người gã dính đầy cát bụi, chúng được buột dây cẩn thận vào những thân sưa nơi gần dốc đá nằm ngoài đường lộ, phía trước là một ngã ba, gần đó không thấy chủ nhân chúng đâu. “Haha… lại có trò vui, phen này ông nội cho chúng mày cuốc bộ, để xem có thể làm cát đá bay mù mịt nữa thôi.”
Đang lúc cởi dây cho ngựa gã thanh niên giật bén mình khi nghe tiếng quát “dừng lại”, tiếp theo đó là tiếng ho khụ khụ, gã thầm than khổ cho rằng mình đã bị bắt quả tang làm bậy. “Không ! tôi chỉ muốn xem sợi dây đai này làm bằng cái gì mà đẹp vậy thôi mà…” Gã vội xua tay nói nhưng giây lát sau phát giác đang nói chuyện với những cái cây vô tri, vì quanh gã chẳng có ai cả.
“Mình gặp ma hay sao? Hay những con ngựa này biết nói…” Gã rùng mình cuốn cuồng tay chân, giọng nói trầm khàn đó lại vang lên: “Không được, chúng ta phải đi chung, đệ đừng nôn nóng, vật mất đã mất rồi, cao thủ lần này không hề đơn giản, lúc bình thường trong bốn người chúng ta không ai có thể đấu một chọi một với hắn, huống hồ …”
Có giọng nữ nhân cất lên ngắt lời, tiếng nói nghe rất gần, ở ngay dưới chân gã thanh niên: “Hay là thế này, chúng ta chia làm hai hướng, em cùng nhị ca đi về phía nam còn anh và tứ đệ theo hướng đến thị trấn, đại ca thấy thế nào?”
Gã thanh niên chợt thông suốt, thì ra họ ở triền đá phía dưới, trong cái hang dưới chân gã, không hiểu do địa thế hay là gã nói quá nhỏ khiến những người kia không hay biết có kẻ định phá ngựa của mình.
Giọng khàn khàn nhưng đầy uy thế của người được gọi là đại ca lại cất lên: “Cũng không được, nhị đệ tánh nôn nóng, lại đang bị thương ta không yên tâm, sau trận đấu đêm qua và những vấn đề của mỗi người lúc trước, chúng ta tuyệt đối không thể chia mỏng lực lượng.”
“Đệ chắc chắn tên áo đen đó là người nước Chiêm Thành (3), huynh lại bảo lên trấn… nếu để hắn thoát, làm mất con cóc, tất cả là tại huynh… hừ.” Người nói chắc là gã nhị ca được cho là nóng tánh.
“Dù có liều tánh mạng chúng ta cũng phải đòi về, ta dám chắc hắn chạy về phía thị trấn, dù có là người Chiêm hay không.” Lão đại đanh thép nói: ”Băng bó cho tứ đệ xong chưa, phủ áo ngoài cho cẩn thận, khi giao đấu đừng để lộ điểm yếu nơi cánh tay phải, nhớ tỏ ra bình thường, lão nhị, cậu cũng vậy, chân đau cũng ráng chịu đừng để sơ hở, đối thủ của chúng ta lần này thân thủ linh hoạt, nhạy bén … nên mọi người càng phải khéo léo ứng biến.”
Lão nhị ngắt lời ngữ khí khó chịu:”Sao huynh cứ đề cao địch mà coi thường… hừ.”
“Thôi ! Đừng tranh cãi nữa, đi nhanh nếu không mất dấu.” Giọng nữ nhân ra vẻ nôn nóng.” Gã đại ca cất giọng điềm tĩnh:” Mang theo báu vật nặng cả trăm cân, hắn không dể gì tẩu thoát đâu, chạy suốt một đêm hai cái chân của hắn sắp rớt ra rồi, chắc chắn là đến thị trấn để mướn phòng, dù võ công đến đâu hắn cũng là con người, hơn nữa tên đồng bọn kia của hắn đã bị sư phụ tóm cổ rồi, hắn sẽ không một mình bỏ đi đâu… thôi chúng ta lên đường, bọn ngựa chắc đã đỡ mệt rồi, đến thị trấn còn hơn ba dặm nữa… ”
Nữ nhân thở dài nói:”Nếu muội và huynh không bị tẩu tán khí lực chắc chúng ta đã đánh bại được hắn rồi…” Lão đại lại nói: “Bởi thế tuyệt đối muội không được đọ công lực với hắn.
Bọn bốn người nhanh chóng lên ngựa lao đi theo hướng tây, gã thanh niên nhìn sơ qua, rõ là ba nam một nữ, tuổi khoảng trên dưới ba mươi, nữ nhân kia tướng mạo cũng tầm thường không có gì đặc biệt ngoài tư thế mau lẹ vững vàng của người luyện võ.
Thanh niên từ thân sưa nhảy xuống, gã hiếu kỳ về câu chuyện của những người này, cảm thấy có cái gì không đúng khi nghĩ đến con cóc nặng trăm cân: “Cóc thì không có gì lạ nhưng đến cả trăm cân cũng đáng được coi là báu vật ấy nhỉ!” Gã nghĩ thầm: “Quái lạ quá, hay họ cố tình thêu dệt câu chuyện này để trêu mình, à hay là họ đã phát hiện ra mình muốn phá ngựa nên chơi mình… nhưng điệu bộ khẩn trương của những người này thì chắc không phải thế đâu.” Vừa đi theo hướng những người kia, vừa lầm bẩm, rồi mắt gã thanh niên sáng lên như phát hiện ra điều gì :”Cũng tiện đường mà đi theo phá bọn này chơi, Trần Lĩnh ơi Trần Lĩnh mày có bao giờ bỏ qua những vụ thị phi náo nhiệt đâu mà suy nghĩ chứ… hì hì.”
Thanh niên tên gọi Trần Lĩnh dừng lại hít một hơi dài, rồi co chân chạy, cước bộ của gã mau lẹ và quái dị phi thường, càng chạy càng nhanh có thể sánh ngang với những con tuấn mã đang phi nước đại.
…
Sau thời gian độ tàn một cây nhan, họ Trần đã bắt kịp bốn con ngựa chạy trước, gã chạy chậm dần rồi dừng lại thở dốc nghĩ thầm: ”Càng ngày mình chạy càng nhanh hơn, cũng đỡ thấy mệt hơn, cái bộ khinh thân của ông thầy Tám Sẹo dạy mình hiệu quả thật, không ngờ có thể đuổi kịp bốn con ngựa kia… à mà bọn nó cũng không phải ngựa tốt huống hồ đã chạy cả đêm rồi.”
Trần Lĩnh cứ thế bám theo những con ngựa đằng trước, chạy một đoạn không lâu thì thấy trước mặt là hàng trăm mẫu ruộng vàng óng thi nhau đến tận cuối chân trời, cảnh tượng đồng quê thanh bình yên ả đập vào mắt gã họ Trần, những cơn gió nhẹ thổi vô định trên cánh đồng làm những cây lúa đang độ chín tới gợi sóng lăn tăn, trên trời đám chim sẽ dáo dát bay tứ tung tìm chỗ đáp, xa gần là những anh chàng bù nhìn rơm nghiêm nghị dang tay như muốn nói “lũ chim kia đừng có phá lúa của chủ nhân tao”, Trần Lĩnh đi chậm lại, nghĩ bụng: “Vậy còn đúng một dặm nữa là đến thị trấn gần nhà mình. Đã ba năm rồi, cha sẽ vui lắm khi thằng con cà chớn của ông đã về, mình chưa bao giờ xa nhà lâu đến vậy, phen này chắc một em lợn mập mạp sẽ phải chầu trời vì cuộc tương phùng này quá… hà hà.”
Đang kỳ thu hoạch, ngoài đồng đông vui hơn hẳn, công việc của đàn ông là bó và gánh trên vai thành quả sao bao ngày vất vã, các cô gái cúi mình thi nhau cắt lúa trong không khí vui vẻ, cô nào cô nấy đều thao tác mau lẹ, điệu nghệ, Trần Lĩnh thấy những cô gái ở mẫu ruộng cánh phải sát đường lộ đang khom lưng hướng về phía mình, mắt gã sáng lên nghĩ thầm: “Chà những cái mông thật đẩy đà làm sao, xem kia cô gái áo xanh kia con trẻ quá, dáng người sao mà thon thả đến thế, còn cô áo vàng hì hì… cái mông của cô ta thật là to quá, những cô gái như thế này chắc sẽ đẻ nhiều lắm đây… Bỗng nhiên cô áo vàng đứng lên xoa hông vì mỏi, không hiểu sao cô ta có cảm giác bị nhìn lén nên quay đầu lại thì bắt gặp gã họ Trần đang trơ trơ cặp mắt hướng về phía họ. Trần Lĩnh vội quay mặt đi, giả bộ thản nhiên như không có chuyện gì, gã hơi ngẩn đầu thong thả đi vài bước thì nghe tiếng nói :“Anh gì ơi, nhìn đã chưa ? Nếu chưa thì xuống đây cắt phụ với chúng em này… hi hi.” Cô gái này lúc đầu hiểu ra hơi ngượng ngùng nhưng thấy Trần Lĩnh vội quay đầu, tưởng gã xấu hổ trước hành động bất nhã, đoán rằng gã nhút nhát, dựa vào số đông chị em bên cạnh nên cô quyết định chọc quê anh chàng da đen kia. Các cô gái khác hiểu chuyện cũng thi nhau hùa theo kêu gọi “xuống đây” ới ời, họ nghĩ rằng anh ta sẽ quê lắm, cong giò bỏ chạy không kịp, ai ngờ Trần Lĩnh tỉnh bơ quay sang nói: “Các cô này thật là kỳ, giữa đường giữa chợ lại õng ẹo với người khác, tuy rằng tôi rất đẹp trai nhưng các cô cũng không nên sỗ sàng như vậy, công dung ngôn hạnh của ông bà ta dạy các cô để đâu rồi, thanh niên thời này thật là… chán quá đi… hừ.” Gã vừa nói vừa tỏ mặt nghiêm nghị phong thái như ông thầy đồ thuyết giáo làm những cô gái kia cười phá lên. Cô gái áo xanh khá xinh đẹp nhưng da ngăm đen phảng phất sương gió, cô cố nín cười rồi nói: “Ôi anh tú tài đọc sách thánh hiền sao dám nhìn mà không dám nhận chứ… có muốn xuống cắt phụ không nào, rồi trưa đến ăn mừng với làng chúng em, sẽ đông vui lắm đấy!” Trần Lĩnh nghe sướng trong lòng, cô gái kia giọng nói ngọt ngào như mê hoặc làm gã mườn tượng đến một viễn cảnh tốt tươi là được hò hẹn với người đẹp, đằng hắng một tiếng họ Trần hơi cười nói: “Ê hèm, tiệc tùng tôi chã ham đâu, chẳng qua thấy các cô chân yêu tay mềm, tôi đây đang rỗi nên giúp đấy thôi, ai bảo cha mẹ sanh tôi ra tánh đã tốt bụng, nhờ là giúp liền à…” Một cô nói: Vậy thì mau nhảy xuống đây…” Trần Lĩnh tháo tay nải, xăn ống quần định xuống thì liếc mắt thấy ở dưới ruộng bùn đất có vẻ ẩm ướt, nhìn sang thì thấy các cô gái có vẻ cố nhịn cười, cô áo xanh có nét cười tinh quái. Trong đầu họ Trần liền thoáng qua cái ý nghĩ: “Mình nhìn trộm mông người ta giống như hành động của một tên lưu manh, họ không chửi tới tấp, gọi trai làng đánh một trận tơi bời cho là may, lý nào còn mời tiệc tùng, chắc có âm mưu phá mình đây, thôi dẹp vụ này đi.” Gã hay chọc phá người ta nên nghĩ ai cũng như vậy, vẫn thường đề phòng luôn. Quả đúng như vậy ,thấy họ Trần ngập ngừng, các cô kia nôn nóng thúc dục “mau xuống đi”.
“À quên tôi còn có chuyện, để dịp khác đi, không dám làm phiền các cô nữa…” Trần Lĩnh co giò chạy biến đi, bên tai còn nghe tiếng cười khanh khách. Lần này họ Trần dùng hết sức bình sinh để chạy, những người trên đường dưới ruộng chứng kiến đều kinh hồn bạt vía, các cô gái vừa trêu chọc gã sau màn cười chế diễu liền sững sờ há hốc, miệng không ngậm lại được.
Chẳng mấy chốc hai bên đường đã hiện ra vài ngôi nhà tranh, nhà gỗ tồi tàn, họ Trần nhận ra thị trấn đã ở trước mặt. Vừa chạy vừa nhìn quanh tìm kiếm bốn người cưỡi ngựa, gã tin điều này không hề khó, vì ngựa ở vùng này không có nhiều. Đang ngó đông nhìn tây Trần Lĩnh chợt giật mình khi một bóng người lộn qua đầu gã đứng chắn phía trước khoảng cách một trượng. Vội lạng người né tránh họ Trần lảo đảo tông vào cái cây mọc chĩa ra bên đường cái rầm, té ngã trông rất hoạt kê. Gã ôm trán sưng vù đứng dậy quay đầu lại chửi đổng :”cha ngươi đó, sao cản đường ta, xem mặt xấu xí của ngươi kìa, ta đây đâu có quen, đúng là cà chớn mà …”
Người kia ăn bận bộ đồ màu lục bảo sang trọng, trên tay có cây quát gấp phe phẩy ra dáng một nho sinh. Với ngũ quan sáng rỡ, đạo mạo, anh ta nổi bật sáng loáng ai thấy đều ngưỡng mộ.
“Hóa ra là một tên thư sinh chết bầm, diêm dúa nhìn thật chẳng giống ai, thôi mặc kệ… ông nội mày đây còn có chuyện phải làm, không rãnh để nói chuyện văn thơ ba hào với cái đồ… cái đồ lòe loẹt như mày đâu… tránh ra." Trần Lĩnh nói năng chẳng nễ nan ai. Nho sinh kia nhướng cắp lông mày thanh tú tỏ vẻ khó chịu nói: “Ta đã chờ người từ sáng để tỉ thí, với cách ăn nói như lưu manh của ngươi cũng đủ lý do để ta dạy cho một bài học đắt giá rồi… ăn đòn đi..."
Cảm thấy chừng hửng, Trần Lĩnh đứng trân nghĩ thầm :”Cái quái gì thế này, từ nhiên ở đâu xuất hiện ra một thằng điên, chờ từ sáng chỉ để đánh nhau…”
Thần tốc vô cùng cây quạt trong tay nho sinh đánh tới, Trần Lĩnh vội né tránh nhưng không kịp, vì suy nghĩ miên man gã lãnh một cái tát đau điếng, má phải như muốn rụng xuống. “Mẹ cha mày con công lòe loét điên khùng, dám ra tay đánh ông nội mày sao?” Nói rồi Trần Lĩnh chợt ngẫm nghĩ :”Hắn ta là con công lòe loẹt, mình nhận là ông nội hắn, chẳng khác gì tự xưng là con công lòe loẹt đến độ đáng mặt ông nội của hắn ư… như vậy đâu có đúng !”
Cảm thấy mặt bị tát đau điếng Trần Lĩnh nổi dóa lên chửi bới “tổ sư mày thằng khốn” rồi xuất quyền phải đánh tới. Nho sinh giữ nguyên tư thế tiện tay phải dùng quạt đánh chéo lên khủy tay địch thủ. Không ai có thể ngờ họ Trần ra chiêu nóng nảy chỉ là bề ngoài, gã bất thần xoay chuyển, dùng chân phải đạp thẳng vào chổ hiểm giữa hai đùi đối phương. Phản ứng của nho sinh cũng không tệ, hắn liền co chân trái lên vận động khí lực chống đỡ. Khi hai chân chạm nhau, nho sinh chấn động tâm thần, cước lực của đối thủ quá ư mãnh liệt, chân trái của hắn thầm đau đớn, cố lắm mới giữ được mình không bị thất thế. Họ Trần đang cơn tức đâu dễ buông tha, gã dùng song quyền thay phiên đánh tới tấp vào mặt của đối thủ. Nho sinh liên tiếp thối lui và lạng đầu né tránh trước khí thế hùng hậu đó, không lâu sau đó, hắn cảm thấy các chiêu quyền cước của đối thủ tuy có uy lực nhưng quá thông thường, chẳng có diệu dụng ngược lại còn để lộ nhiều điểm yếu, chẳng qua là hắn khinh địch nên mới phòng bị chậm, khiến thủ lực chưa đủ để chống đỡ chiêu cước vừa rồi mà thôi. Qua hơn mười chiêu né tránh nho sinh lạng người sang trái thúc cùi chỏ vận lực sấn tới đánh vào sườn trái ngay dưới cổ đối thủ. Khí thế đối phương quá mạnh mẽ Trần Lĩnh chưa bao giờ thấy qua chiêu thức thần tốc trong tư thế đẹp mắt này, nên gã né tránh theo cảm tính, vai trái liền bị trúng đòn. Họ Trần thối lui một trượng tự nhiên mĩm cười thích thú nói: “Chiêu này của ngươi hay quá…” Nho sinh nghe những lời này liền điên tiết lên chửi “đồ lưu manh” vì cho rằng gã đang châm chọc chiêu thức có phần tàn độc của mình. Thật tệ nếu họ Trần không có lực thủ hùng hậu và càng tệ hơn nếu gã bị đánh vào cái xương sườn dưới cổ.
Trần Lĩnh phát ra câu nói rất tự nhiên không hề để lộ nét khoái trá trên khuôn mặt. Cây quạt trong tay nho sinh linh hoạt điệu nghệ, lúc xòe, lúc gấp, lúc đâm, lúc chém biến ảo vô cùng, cũng một chiêu đâm thẳng hắn đã biến chiêu ba lần mỗi lần đều khác nhau, những chiêu liên hoàn lại biến hóa linh động hơn, ba thành chín, chín thành hai mươi bảy… Trần Lĩnh có vẻ như kinh nghiệm giao đấu không có nhiều, gã liên tiếp né tránh trong khi buột miệng khen đối phương “hay quá”, “tuyệt thật”.
Người Việt cứ thấy náo nhiệt là bâu vào, quanh đường lộ đã có đến hơn ba mươi người đến xem trận đấu này, trong đó có vài người là khách giang hồ, họ đang bình luận với nhau về Ngô gia kiếm phái, một gia đình có tiếng tăm trên võ đàn và là hậu duệ của Ngô Vương năm xưa, vị lãnh tụ đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, lịch sự oai hùng đó luôn là đề tài hấp dẫn của các bô lão làng trên xóm dưới khi kể chuyện cho đám con nít.
Nho sinh đánh ra một trăm chiêu, trong tư thế và bộ vị khác nhau, càng lúc càng ưu việt, chiêu trước mở đường cho những chiêu sau trong tư thế có lợi hơn, vì vậy càng lúc tốc độ và lực công mỗi chiêu đánh ra càng lợi hại thêm lên. Trần Lĩnh không thể nào lật ngược lại thế trận, dù thân pháp né tránh của gã nhanh đến kỳ lạ. Càng về sau Họ Trần càng luống cuốn, mắt gã quáng gà, né bừa tránh bậy theo cảm tính và cứ năm, sáu chiêu họ Trần dính một thức. Vẫn đều đều bị ăn đòn nhưng có vẻ họ Trần vẫn trụ vững, chẳng thấy gã tỏ ra đau đớn gì.
“Cậu chủ hãy dùng kiếm…” Một giọng nói êm dịu vang lên, dễ đoán biết chủ nhân của nó là một cô gái còn trẻ, tiếp sau đó thanh kiếm sáng loáng đã rút khỏi vỏ bay chính xác về vị trí của tên nho sinh đang đứng, nếu có kiếm trong tay từ trước thì thật khó đoán tính mệnh của họ Trần, chắc gã đã gặp diêm chúa đến ba lần là ít. Nho sinh tung mình lên cây quạt đánh “chát” một tiếng thanh kiếm bay ngược về phía cô gái.
Ngô gia kiếm phái mấy chục năm trở lại đây chỉ sử kiếm, công phu quyền cước của họ không được đánh giá cao cho lắm, nên đối với kình địch, nho sinh nào dám tay không giao đấu, mà dù sao dùng quát cũng coi như là nằm canh trên so với đối thủ tay không rồi, nếu còn sử kiếm thì nhà họ Ngô còn mặt mũi nào, danh tiếng càng lớn con người ta càng coi trọng thể diện. Ngược lại Trần Lĩnh thì khác, gã là kẻ lười đọc sách, chẳng hề biết đến nhân tình thế thái, cũng chưa có kinh nghiệm giang hồ nhiều, nhân lúc nho sinh phân tâm, họ Trần sấn tới tung một quyền nhanh như sấm chớp vào má phải của đối thủ làm thân người nho sinh lăn lộn một đoạn cả năm trượng, chắc hắn không ngờ mình bị đánh bại như vậy, họ Trần cũng tỏ vẻ ngạc nhiên không kém khi cú đấm của gã mang uy lực lớn như vậy.
“Ha ha… ông bạn vô cớ đánh tôi hơn mười cái, tôi đánh lại chỉ có một, thế là ông lời quá rồi … thôi tôi đi, tha ông bạn vậy… nhớ đừng cà chớn vô cớ chặn người khác lại nữa là được rồi.” Trần Lĩnh cười hả hê, gã quay sang đám đông thì thấy nhiều người nhìn mình với ánh mắt không thiện cảm cho lắm. Gã lấy làm kỳ rồi mặc kệ họ cứ bỏ đi.
“Đứng lại” Nho sinh má trái sưng vù, đầu tóc bù xù lấm lem, cô gái hầu cận đến đỡ, hắn hất tay cô, gượng người dậy lảo đảo đi vài bước nói: “Ngươi đã thắng, công chánh cũng được, yếm trá cũng được, thua là thua ta không còn gì để nói…” Trần Lĩnh tỉnh bơ đáp: “Vậy tôi đi đây ông bạn còn nhiều chuyện để làm gì, cha mẹ sanh ra đã phiền phức hết thuốc chữa vậy sao… tầm bậy không à.” Nho sinh chừng hửng hỏi: “Nghĩa là sao, không phải ngươi đến để giải quyết chuyện hai phái chúng ta sao...?” Trần Lĩnh ngạc nhiên nói: “Chuyện gì, phái nào, tôi có biết gì đâu tự nhiên ông bạn xông ra cản đường, rồi đòi đánh nhau, chứ tôi đâu có rãnh…”
Nho sinh lộ vẻ ngạc nhiên vô cùng :”Gì chứ, đã hẹn sáng nay gặp, ta đã đến từ sớm mà có thấy ai là cao thủ đâu? Ngoài ngươi ra… ” Trần Lĩnh lẫm bẩm: “Cái tên mang con cóc nặng trăm cân… bọn bốn người kia nữa… họ không phải cao thủ sao?” Họ Trần nói lí nhí nhưng không ngờ nho sinh vẫn nghe được, hắn hỏi: “người nào… con cóc gì nặng trăm cân…”
Bỗng nghe giọng trầm trầm của một người đàn ông: “Phan Huy Phát của Bạch Vân môn đã đến đây… Ngô Công Chính ngươi đã hồ đồ rồi.” Nho sinh nhanh chóng tỉnh ngộ nhận ra mình đã lầm, hắn vừa định nói thì cô gái đi cùng đã vội lên tiếng hướng về phía người mới xuất hiện : ”Tên họ Phan chết bầm, ngươi đã đến trễ, lại còn không sủa lên một tiếng, làm cậu Hai của ta phải phí sức với cái tên lưu manh kia, ngươi đứng đó quan đấu nãy giờ, vậy còn bốn chân đi ra làm gì, công bằng có còn không, đúng là cái tên mặt dày mà.” Gã Huy Phát này độ ba mười tuổi, dáng người to cao lực lưỡng, mặt chữ điền, mày rậm râu dày trông rất ngầu, nhìn qua đoán chắc không phải người thường, bị cô gái xỏ xuyên anh ta cũng không tỏ ra giận gì, cười hề hề nói :”Con bé này! Mới mở mũi mà miệng lưỡi ghớm nhỉ, hà hà... tôi cũng có chỗ không đúng… tôi thấy bộ pháp của anh chàng kia lợi hại nên xem để mở rộng tầm mắt thôi.” Họ Phan vừa nói vừa hướng về phía Trần Lĩnh, ngữ khí coi ra nhiệt thành hòa hảo, nhưng cô gái độ mười lăm, mười sáu tuổi của nhà họ Ngô kia không nghĩ như thế, cô tức giận nói: “Ngươi chỉ xem bộ pháp tên lưu manh kia, không coi kiếm pháp của Ngô gia ta ra sao hả, hay ngươi cố ý nói vậy… hà hà người của Bạch Vân môn chỉ có thể, toàn tiểu nhân có xem mà không dám nhận…”
Trần Lĩnh cảm thấy không còn chuyện của mình nên lặng lẽ luồng qua đám đông hướng về trung tâm thị trấn. Những lời nói của anh chàng Ngô Tuấn kia làm gã suy nghĩ: “Quái lạ võ công của mình tầm thường ai cũng biết mà, luyện võ lúc nào cũng bị hai bà dì la mắng, bốn người kia chắc chắn võ công cao lắm, lại còn cái tên mang theo con cóc… Gã theo đạo Khổng kia nói là chờ từ sớm mà không thấy ai đáng mặt cao thủ, chẳng lẽ võ công mình còn hơn những người đó ư, hì hì… buồn cười thật, bọn người giang hồ thật là rắc rối thảo nào hai bà dì và cha lúc nào cũng bắt mình đừng chen chân vào… mà nói đi cũng nói lại, nhiều rắt rối mới có chuyện thú vị, gì mà đánh nhau giải quyết vấn đề, rồi chỉ vì một con cóc ghẻ mà đuổi đánh nhau cả đêm, còn lão già giả thần giả quỷ kia nữa chứ… tùm lum tùm la… rùm ben rối đen cả lên.”
“Nhắc đến con cóc mới nhớ, bốn tên kia không biết ở đâu rồi nhỉ, mình tò mò muốn biết con cóc trăm cân mặt mũi như thế nào quá, chuyện này quả là khó tin thật.” Trần Lĩnh vừa đi vừa lẫm bẫm một mình không lâu đã dừng chân trước một quán rượu nhỏ. “Chạy cả buổi sáng đói bụng rồi, kiếm chút gì ăn cái đã.” Nghĩ vậy Trần Lĩnh liền đi vào trong, nhìn sơ qua thấy quán này khá nhỏ và cũ kỹ, vách gỗ chạm vài hoa văn đơn giản đã phai màu sơn, mái ngói mỏng, hình thức kép hai viên theo kiểu cách giống những ngôi nhà tầm thường nơi đây, không có gì bắt mắt để thu hút khách hàng ngoài vị trí là quán ăn uống đầu tiên của thị trấn tính theo hướng họ Trần đi đến.
“À… anh bạn, muốn ăn hay muốn ở đây?” Chủ quan ăn bận giản dị trên tay đang cầm cái khăn lau bàn tiến nhanh lại đưa đường cho Trần Lĩnh đi về cái bàn ở góc trái cạnh cửa sổ, nơi có thể nhìn ra đường qua những cái song gỗ thẳng đứng. “Ăn thì sao ở thì như thế nào?” Trần Lĩnh không trả lời mà hỏi ngược lại. “Ăn thì vô tư, ở đây có đủ món đặc sản của vùng này, kể cả các món ăn nổi tiếng đất Chiêm Thành. Còn ở thì không được rồi, quán tôi nhỏ chỉ có sáu phòng và đã có người thuê, không biết bao giờ trả… hì hì.” Chủ quán thấy Trần Lĩnh mang túi hành lý to lớn trên lưng, theo cảm tính công việc hắn đoán là khách nơi khác đến, không phải dân địa phương.
Trần Lĩnh cười nói: “Thế còn gái thì sao, quán này có không?” Chủ quán chẳng giận, cười hì hì nói: “Anh bạn vui tánh quá, quán tôi có chỗ nào giống lầu xanh đâu, ở cái thị trấn nhỏ bé này chỉ có hai cái à, mà ở tận phía đông bắc, nếu muốn… ăn xong tôi có thể chỉ đường… hì hì.”
“Ấy, do đầu óc chú suy nghĩ bậy đó, tôi hỏi gái ý nói chú có con gái không ấy mà… a hà…chưa hỏi mà đã tự khai nhé… chú hay đi lầu xanh lắm có phải không?” Trần Lĩnh cười chỉ vào ngực chủ quán, giọng gã khá to làm nhiều người đang ăn hướng nhìn về phía họ.
“Này, nói nhỏ thôi cái cậu này, cậu muốn bà vợ tôi nghe thấy hay sao hả?” Chủ quán vội nói sang chuyện khác :”Tôi có đứa con gái mà cậu hỏi làm chi vậy?” Trần Lĩnh tỉnh bơ đáp :”Ở trọ không cho thì xin ở rễ chứ sao, con gái chú đâu rồi… hi hi.”
Chủ quán có vẻ hơi khó chịu, không muốn quanh co với gã họ Trần nữa vội nói: “Thôi! Cậu em muốn ăn gì uống gì để tôi mang ra, đừng giỡn nữa, tôi còn phải làm việc.”
Trần Lĩnh đẩy tay chủ quán cười nói: “Lâu ngày giỡn chơi tý mà, chú Tư không nhận ra cháu à!” Chủ quán lui đầu ra ngắm nghía, Trần Lĩnh còn nói thêm “nhìn cho kỹ coi”.
Chủ quán dáng điệu ngạc nhiên nói lớn: “Trời đất! Thằng Lĩnh, mày mới về hả, trời! Đi lâu quá tao nhận không ra… mày làm gì mà da đen như than vậy nề? Mà sao mày không đi luôn, về đây làm chi?”
Trần Lĩnh đang cười hì hì liền im bặt nói: “Ấy, chú nói thế cháu buồn nghe…lâu ngày chú cháu mới gặp lại, không mừng rỡ cười tanh bành một hiệp, giết gà đãi một trận tơi bời thì thôi…sao chú lại nói ra những lời dễ làm ta xa nhau như vậy?” Gã chợt cười trở lại: “À! Hay là sợ cháu tiết lộ bí mật của chú chứ gì… hê hê.” Chủ quán vội nhìn quanh rồi bịt miệng Trần Lĩnh nói nhỏ: “Cái miệng mày, mấy năm nay ta tu rồi, đừng có nói bậy nói bạ, bà vợ ta hay ghen rùm ben, đúng sai gì không biết, bả mà nghe phong phanh là quậy banh xác cái quán này lên cho coi, mày cũng biết tánh bả quá rồi mà… tao lạy mày tao già rồi, để cái lỗ nhĩ tao yên tĩnh dùm cái.”
Trần Lĩnh cười nói: “Thôi được rồi, không giỡn nữa, chú lấy cho cháu một hủ rượu trắng và một tô mì xào đi, đói quá rồi !” Chủ quán tên Tư nói: “Á cái thằng nhỏ này, đi vài năm về không học được gì hay ho, tập thêm cái thói uống rượu uống chè, bình thường mày hay ăn nói tầm bậy, say sỉn vô ai mà chịu mày cho nỗi, thôi dẹp đi, ăn mì thôi.” Trần Lĩnh khó chịu nói: “Cái chú này, cháu đã mười chín tuổi rồi có còn nhỏ nữa đâu, chú không lấy rượu phải không… thím ơi…” Chủ quán vội ngăn :”Thôi được rồi, để tao lấy… vừa về là làm rối đen lên à!”
Trần Lĩnh cười hì hì đảo mặt nhìn một vòng, trong quán có khoảng mười người, làm gã chú ý hơn cả là vị khách mặc áo vải thô màu tro, đầu quấn khăn trùm luôn sau gáy, tóc đen dày, hắn có khuôn mặt rất trắng trẻo, thanh tú, như chưa từng trải qua sương gió, điều đặc biệt nữa là bộ râu tỉa tót rất đẹp, nhưng hình như quá dày, không xứng với tuổi tác.
Trần Lĩnh tháo túi hành trang xuống vô ý đặt lên bàn cái “rầm”, thanh âm rất lớn và chát chói như tiếng kim khí va chạm nhau, dễ dàng đoán được những món đồ trong đó rất nặng, hơn năm mươi cân là cái chắc. ĐIều này làm nhiều người khách quay đầu lại nhìn gã họ Trần, trong đó người đàn ông da trắng râu rậm đặc biệt nhép miệng cười, ném cái nhìn khinh khi như muốn nói:”Tên hèn mạc dám tỏ vẻ ta đây là cao thủ chốn giang hồ.”
“Này mọi người có biết rằng thái giám có đến hai loại hay không vậy?” Trần Lĩnh quay quanh dõng dạt nói lớn. Mọi người trong quán chừng hửng ngơ ngác không hiểu gã nói như thế là có ý gì. Ở góc đông bắc có anh chàng béo ú, đang cắm cúi ăn ngấu nghiếng bát mỳ, miệng còn đầy thức ăn anh ta nhập nhèm nói:”Ngươi nói cái gì thế, thái giám là đàn ông bị cắt cái bảo bối, làm gì có hai loại chứ, chẳng lẽ có người đến hai cái bửu bối, cắt một cái còn một cái ư, ta thông minh thế này có lý nào lại không biết đến điều này chứ… tậm bậy… tầm bậy!”
Trần Lĩnh đứng dậy đi lại gần người đàn ông da trắng và hướng mặt chỉ tay vào anh béo tỉnh bơ nói: “Quả thật anh bạn này rất thông minh, nhưng mỡ đã che mờ lý trí anh ta mất rồi, trên đời này ngoài các vị thái giám phục dịch trong cung cấm, còn có một loại thái giám nữa… đó là cái đồ lẹo cái đấy biết không.. hả? Bất lực, có bửu bối mà không xài được, còn dán thêm bộ râu chẳng tương xứng để làm ngầu, các người nghĩ xem như vậy có đáng buồn cười không cơ chứ…ha ha ha ha.”
“Ha ha ha ha…” mọi người trong quán cười rần lên, hùa theo điệu cười quái gỡ của họ Trần dù chẳng hiểu rõ ý họ gã là gì, lý do lớn nhất khiến họ cười là cái cách nói nhanh nhẩu suông sẻ và động tác múa tay giả làm “yểu điệu thục nữ” dán râu của gã trông rất hoạt kê. Còn anh chàng béo kia cười càng ác liệt hơn, cười văng mỳ tung tóe, lý do anh ta cười chắc không ngoài câu nói “quả thật anh bạn rất thông minh”, chẳng còn tâm trí để hiểu được cái vế sau “mỡ đã che mờ lý trí”.
“Soẹt… rầm…” Nam nhân râu rậm lạnh lùng rút đại đao ngang hông, thản nhiên đảo một vòng dương lên chém xuống một chiêu, cái bàn trước mặt được chia tách làm hai, ngay sau đó kình lực làm tan tành muôn mảnh. Cả quán sững sờ chết đứng, một vài người hốt hoảng bỏ chạy.
Trần Lĩnh đứng chỉ cách một bộ, dư lực một phần nào đó tấn công gã, nhưng xem ra đôi chân họ Trần chẳng hề nhúc nhích. Trong sát na nào đó, mắt nam nhân kia ánh lên vẻ ngạc nhiên rồi nhanh chóng trở về trạng thái lạnh lùng.
“Có thể điều gì đó đã làm cho anh bạn tức giận, nhưng cái bàn nhỏ bé tội nghiệp này không có thù giết cha anh bạn, nên đền tiền là điều tất nhiên không thế chối cãi, vậy cảm phiền móc ra năm mươi quan… lè lẹ cho may mắn nào! ” Trần Lĩnh chẳng hề khó chịu vì nghĩ rằng trong cuộc đấu khẩu này mình đã thắng lý, gã không bận tâm nghĩ đến việc đối phương chưa nói ra một từ nào cả.
Trong tình hình căng thắng như thế này, mọi người bàn quan chắc đến chín phần sẽ có một cuộc quyết đấu. Nhiều khi những cuộc tử chiến một mất một còn diễn ra với lý do rất tào lao như thế này đây.
Chú Thích: Nguồn: wiki
(1): Dặm: là một đơn vị đo chiều dài cổ của Việt Nam và trung quốc theo Từ lâm Hán Việt từ điển trước năm 1368: 1 dặm = 576 mét.
Trượng : theo Từ điển tiếng Việt (tr. 1093) 1 trượng=10 thước= khoảng 3,33 mét.
(2): Cân : theo đơn vị đo khối lượng cổ Việt Nam, 1 cân= 16 lạng = 604,5 g
(3): Chiêm Thành: là một quốc gia cỗ nằm ở phía nam nước ta, là tên gọi của vương quốc Chăm Pa (tiếng Phạn: Campanagara) trong sử sách Việt Nam từ 877 đến 1693[1]. Trước 859 Việt Nam gọi vương quốc này là Hoàn Vương. Đầu thế kỷ thứ 11, Chiêm Thành bao gồm 4 tiểu vương quốc là: Amaravati (vùng Quảng Nam, Đà Nẵng ngày nay, và vùng Bình - Trị - Thiên nhưng sau này bị sáp nhập vào Đại Việt), Vijaya (vùng Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), Kauthara (vùng Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay) và Panduranga (vùng Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay).
Nam nhân râu rậm đứng phất dậy, hắn vung đao đâm tới nhắm ngực Trần Lĩnh, họ Trần cuống quýt xoay người né tránh, thanh đao trong tay nam nhân không hề xoay chuyển, vẫn hướng thẳng đâm tới, chỉ nghe “rầm” một tiếng, binh khí và cả thân người nam nhân kia bay thẳng ra cửa sổ trước sự ngỡ ngàng của mọi người, trên tay trái hắn nắm một túi vải đen khá lớn trông có vẻ nặng nề.
Trần Lĩnh hơi ngạc nhiên trong thoáng chốc rồi cười nói: “Ha ha… biết sợ… biết sợ thì tha… ha ha… Rồi gã nghĩ gì đó nét hoảng hót hiện ngay trên mặt : “Chết tiệt! Hắn chưa đền tiền.”
Trần Lĩnh vội nhảy ra cửa sổ, ra ngoài thì được, nhưng thân người té sấp xuống mặt đất trông rất thảm thương, gã còn cố quay đầu nói: “Chú Tư yên tâm cháu sẽ bắt gã đền tiền.”
Vừa định thần họ Trần liền nghe thấy tiếng vó ngựa “lộp cộp”, phía trước là bốn người cưỡi ngựa có cái lưng quen thuộc, những cái lưng gã đã nhìn suốt mấy dặm đường :”Là bọn họ… ấy chà… lẽ nào cái tên mặt trắng mang râu giả kia là người đánh cắp con cóc… đúng rồi, chắc hắn đã biết bị phát hiện nên mới chạy chứ không phải kẻ ăn quỵt đâu.”
“Ê! Lĩnh… hắn có để lại tiền dưới ghế này, đừng đuổi theo nữa!” Chủ quán trong nhà nói vọng ra. Trần Lĩnh vội vả đáp: “Cháu có chuyện phải đi, sẽ ghé chú sao… thế nhé!” Nói rồi họ Trần chạy biến đi.
Người ngựa đuổi theo nhau một đoạn khoảng hai mươi trượng thì tới trung tâm thị trấn. Nam nhân râu rậm nhanh chân trà trộn vào đám người đang họp chợ, rồi hắn đi vào con hẻm gần đó quay ngược trở lại. Bốn người cưỡi ngựa không hiểu có nhìn thấy người kia hay không, họ cũng quay ngựa ngược về hướng quán rượu, Trần Lĩnh cảm thấy kỳ lạ nhưng vẫn cứ chạy theo bốn con ngựa kia.
Gần trở về quán rượu, bốn con ngựa bỗng nhiên quẹo lên con đường nhỏ đi về hướng đông bắc, Trần Lĩnh chạy gần họ chẳng nhìn ra người nam nhân râu rậm kia đâu, cảm thấy khó hiểu khi bọn bốn người đi hướng đó. Suy nghĩ giây lát gã cũng chẳng biết tính sao nên đành đi theo.
Bước chân của những con ngựa dẫn Trần Lĩnh đi qua rất nhiều con đường lớn nhỏ, có lúc quay ngược lại hướng tây, có lúc chạy vòng tròn, trời đã trưa lắm rồi, lại đang mùa nắng nóng, gã họ Trần như phát khùng vừa đi vừa chửi: “Mẹ nó bọn điên này, có ăn nhầm thứ gì không biết, dẫn ông nội nó đi loanh quanh, hù… hù… mệt muốn chết.”
Cuối cùng cũng ra đường lớn, đi thêm một đoạn năm trượng, Trần Lĩnh nghĩ gì đó mắt láo luyên, ngó đông nhìn tây:”À ha, nhìn thấy rồi, hai cái lầu xanh mới xây dựng, ối kìa cô nàng kia nhìn thật là đã mắt quá, xinh thật, mà hình như trét phân… ý lộn trét phấn hơi nhiều, mặt trắng bệch cứ như ma sơ… sao ít người thế nhỉ? Mà cũng đúng đang trưa ai rãnh đâu ra phơi nắng chứ, buổi tối mới nhộn nhịp, hôm nào rãnh phải đi cho biết mới được hì hì…”
Trần Lĩnh đang cười bỗng giật mình :”Chết! Mấy con ngựa đâu mất rồi… tổ cha hắn lo ngắm gái quên mất tiêu rồi… giờ tính sao đây.” Chạy hai trượng thì đến ngả tư, họ Trần nhìn hướng bắc thì thấy có cát bụi ít nhiều bay bay :”Chắc là họ rồi, theo hướng đó thôi!”
Trần Lĩnh ra sức chạy mong bắt kịp bọn kia, không bao lâu khoảng cách đôi bên chỉ còn vài trượng, đám ngựa rẽ sang hướng tây khi đến một ngả ba :”Tổ cha hắn, lại đổi hướng… phiền quá đi… không hiểu sao mình phải tự làm khổ thân khi đi theo cái bọn chẳng biết phương hướng này… ối trời ơi!” Họ Trần lại lẩm bẩm gãi đầu bứt tóc, nhưng rồi gã vẫn đi theo hướng đám người kia.
Lần này họ không quanh co nữa, thẳng một đường mà phi hết lực, Trần Lĩnh đã thấm mệt, dù sao chạy cả buổi sáng chân khí đã hao tổn, trời đang nắng nóng thế này là thời điểm dễ kiệt sức nhất.
Cuối cùng bọn bốn người đã ra khỏi thị trấn, Trần Lĩnh cố sức chạy dù đôi chân rã rời, gã hiểu rằng nếu dừng lại nghĩ ngơi thì sẽ không chạy được lâu nữa :”Dù sao mình đã từng luyện khinh công gian khổ trong ba năm rồi, nếu bỏ cuộc thì còn mặt mũi gì gặp thầy gặp bạn nữa chứ, là đàn ông con trai thấy khó khăn mà vội từ bỏ thì về lấy yếm đỏ mà mặc cho rồi.”
Bất ngờ trong đám bốn người có một nam nhân đứng trên yên ngựa, hắn lấy đà rồi khinh thân đến phía trước, nhào một vòng trên không trung chặn trước mặt nam nhân râu rậm. Thì ra họ vẫn luôn đuổi sát nhau, có điều cát bụi đã ngăn tầm nhìn của Trần Lĩnh mà thôi.
Cả bọn dừng lại, Trần Lĩnh nhanh chân nấp vào đám lao sậy, ngồi chồm hổm, thở hồng hộc và quan sát tình hình.
“Ha ha, ngươi có chạy đằng trời, tối qua, ta đã rắc một loại phấn đặc biệt lên người ngươi, dù có chạy cả chục dặm cũng không thể trốn khỏi cái mũi của con chồn thính này! Khôn hồn thì giao con cóc ra, ta có thể để cho ngươi đi.” Trần Lĩnh đoán biết đây là tên đại ca trong số bốn người, bởi vì giọng nói trầm khàn của hắn khá đặc biệt. Nghe hắn giới thiệu con chồn thính, Trần Lĩnh mới vỡ lẽ cái lý do bọn họ chạy lòng vòng nãy giờ.
Vứt túi vải đen nặng nề xuống, người có râu rậm lạnh lùng nói: “Muốn lấy lại vật báu thì lên đi, đừng lắm chuyện!” Trần Lĩnh nghe thanh âm lanh lảnh tuy nói lớn, quát nạt nhưng vẫn để lộ sự thanh thót:”Chắc chắn rồi! Ta nghi là đúng mà, hắn là con gái cải trang, dáng bộ râu nhìn không thật tý nào.”
“Sát tinh trận bài bố!” Sau tiếng quát của tên đại ca, bốn người tuốt gươm bao vây cô gái có râu ở giữa theo hình vuông. Cùng một lược kẻ công trên người tấn dưới, họ thi nhau chém vào cô gái. Sau vài chiêu, cô gái xuất cước nhắm đạp vào lưỡi gươm của lão tứ vì chắc rằng gã chính là điểm yếu nhất trong bốn người, đồng thời thanh gươm trong tay cô chém ngược lên cổ tay lão nhị. Lão tứ rút chậm bị dẫm trúng, gươm tụt khỏi tay, còn riêng lão nhị, hắn xoay cổ tay lạng ra mé ngoài bất thần đâm một chiêu nhắm vào cổ đối phương. Cô gái có râu cong người né tránh xoay chuyển hướng chém vào thân gươm của cô gái duy nhất trong bọn bốn người làm thân người cô ta chấn động mạnh liệt phải thối lui, đồng thời, co chân phải cô gái có râu đá một cước trúng ngực lão tứ. Lão đại dù đoán được nhưng hắn ra tay khá chậm, có vẻ như xuất chiêu còn chậm hơn lão nhị nữa.
Trần Lĩnh ở ngoài quan đấu nghĩ thầm: “Trận pháp gì mà dỡ như phân, chỉ mới hai, ba chiêu mà đã tanh bành, còn cái tên đại ca kia, xuất chiêu gì cứ như đàn bà múa lửa, chẳng có sức lực gì cả, bọn diễn tuồng còn nhanh hơn.”
“Hợp trận” Lão đại hô lớn, ba người có gươm trong tay xích lại gần, cô gái có râu bị đẩy lùi hai bước, bọn ba người cùng nhau xuất chiêu liên tiếp tấn công đối thủ, Trần Lĩnh tuy không biết nhiều về cách sử dụng các loại binh khí, nhưng đến đây gã không dám coi thường bọn kia nữa, bởi lẽ họ đứng sát nhau, tấn công tới tấp với tốc độ nhanh, nhưng tuyệt nhiên các thanh gươm không hề chạm trúng nhau bao giờ, người trên thì kẻ dưới, kẻ đông thì người tây, chiêu thức rất bài bản cứ như cùng một người múa đến ba thanh gươm vậy. Cô gái có râu có vẻ hơi bỡ ngỡ, chắc đêm qua bốn huynh đệ họ chưa sử chiêu thức này đấu với cô. Cô gái liên tiếp bị chèn ép phải thối lui đến tám bộ, tương ứng với tám chiêu mỗi người bên kia đánh ra. Lúc này lão tứ đã có thể an toàn nhặt lại thanh gươm của mình.
“Biến trận” Sau tiếng hô của lão đại, ba người có vẻ hơi nới rộng ra, tung chiêu có vẻ mạnh mẽ và thỏa mái hơn, trong thế né tránh đỡ gạt dồn dập, cô gái giật mình khi thấy thần hình lão tứ đang lơ lững trên không, sát cơ trong thanh gươm của hắn gần chém đến đầu cô, vội lạng né tránh thì vai phải cô đã trúng một chiêu chém chéo từ dưới lên của lão đại, rất may vết thương không sâu lắm. Lão tứ lúc này đang phi thân bằng cách mượn vai của lão nhị, sau cú chém hụt, hắn bất thần lộn người, gót phải đánh ngược ra sau tấn công lưng đối thủ. Nếu trúng chiêu này thân hình bị đẩy gần về phía ba người kia, cô gái có râu chắc chắn sẽ bị loạn đao chém tới tấp. Trần Lĩnh quan đấu nóng người vô cùng, hai tay bóp chặt không biết có nên giúp hay không, nhưng dù muốn chắc chắn cũng không kịp rồi.
Lưng cô gái vẫn bị đá trúng, nhưng lão nhị có cảm giác như mình đá phải con lươn khổng lồ và trơn láng. Chân hắn bị trượt đi, bao nhiêu khí lực đều đổ vào khoảng không. Cô gái lộn một vòng qua cánh phải rồi múa đạo loạn xạ, nhanh đến kinh ngạc, trong chóng vánh, màn đao quang cùng lực công mạnh mẽ bủa vây khắp người cô và đang sấn tới bọn kia, bốn người giật mình kinh hãi trong thoáng chốc.
Lão đại liền trấn tĩnh quát :” Biến chiêu tư do, bỏ đá phá đường.” Lão nhị và lão tứ hình như đã hiểu ý, hai người sấn tới, huy động khí lực vào thanh gươm, chẳng hề do dự xông đến tấn công, cảnh tượng này giống như những con thiêu thân lao vào ngọn lửa đang bừng cháy.
Nghe “xoẹt” một tiếng lão tứ đã trúng một nhát gươm chỉ sau vài chiêu, cánh tay phải của hắn bị chặt đứt liền đến tận cùi chỏ. Tiếp theo lão nhị bị chém một nhát sâu bên hông phải. Vết thương cả hai máu tươi xối xả, Trần Lĩnh ít ra giang hồ, những cảnh tượng máu đổ thịt rơi như thế này gã chưa hề thấy qua, bất giác cảm thấy rùng mình, nổi óc ao. Chỉ một sát na sau đó, hai thanh gươm sáng loáng từ trên cao chém xuống đỉnh đầu cô gái có râu, phản ứng của cô rất nhanh nhạy, liền vung gươm lên đỡ. Công lực mạnh mẽ của cô gái này khiến hai thanh gươm của lão đại và lão tam bị chấn động tụt khỏi tay họ, tiếp đó hai người này còn bị đá liên hoàn hai cước vào ngực, bất ngờ thanh gươm trong tay lão nhị ở dưới đâm tới, trúng ngay vị trí cách nách phải cô gái độ nửa gang, cú đâm này là tất cả sức mạnh còn lại của lão tứ, vết thương của cô ta xem ra rất là nặng. Cô quay sang tung cước liên tiếp vào mặt lão nhị rồi nhặt túi vải đen, nhanh chân đi về phía những con ngựa.
Vừa đến gần, cô gái tung lưỡi gươm chém vào cổ ba con ngựa làm chúng hí lên một tràng rồi ngã ra chết tươi, phần cô nhảy lên lưng con ngựa ô còn lại rồi dùng sống gươm thúc nó đi, lúc đầu con ngựa này nhảy cưỡng lên vì cái chết của đồng loại, nhưng rồi nó nhanh chóng nghe theo sự điều khiển của cô gái. Trên hông cô còn nguyên thanh gươm nhuộm máu đỏ và cứ thế cô cho ngựa quay về hướng thị trấn.
“Con mụ độc ác, sao chém chết ba con ngựa vô tội chứ? Mẹ nó có thù giết cha cô sao… mình phải làm sao bây giờ? Trần Lĩnh không hề hiểu lý do cô gái kia lại ra tay tàn độc với những con ngựa như vậy, nhưng bọn bốn người không có ngựa để đuổi theo thì hiểu rất rõ, giờ họ chỉ biết đứng nhìn, lão đại và lão tam thì bị tẩu tán khí lực, lão nhị và lão tứ đang thọ thương quá nặng.
“Đừng nói là ăn cướp của người, nội hành động giết hại những con vật vô tội cũng đáng bị trừng trị rồi, tôi sẽ bắt ả, đánh cho một trận rồi tống vào lầu xanh, để xem ả còn làm hại ai được nữa không… các người yên tâm ở đó chờ đi.” Trần Lĩnh bỗng nhảy ra nói lớn, điều này khiến bọn bốn người chừng hửng, cứ ngờ gã ở trên trời rớt xuống.
Họ Trần vận lực cò giò chạy, đang cơn tức giận quên cả mệt nhọc, gã chạy như điên và không nhìn đường liền vấp cục đá lớn, té ngã lăn lộn. “Không sao, yên tâm đi tôi sẽ lấy lại con cóc.” Trần Lĩnh phủi bụi trên mặt xua tay nói. Gã đang đứng ở ngả ba và đã đi sai hướng, lão đại nói được vài tiếng :”Này anh bạn…” Trần Lĩnh vội ngắt lời: “Yên tâm đi… yên tâm đi” Rồi co giò chạy biến đi. Được khoảng nữa dặm, họ Trần càng chạy thì càng thấy ruộng lúa hai bên đường càng nhiều, nhìn sang hướng hướng tây nam thì núi non trùng điệp.
“Có cái gì không ổn rồi! Chết cha, nhầm đường thì phải, mình quên để ý, không biết cô ta có chạy hướng này không?” Trần Lĩnh ngẫm nghĩ rồi nhìn xuống đường chẳng thấy dấu chân ngựa đâu cả, cả vết máu cũng không có:”Chắc chắn rồi, mày đã nhầm đường, Lĩnh ơi là Lĩnh.”
Vò đầu bứt tóc, tự trút giận bản thân, Trần Lĩnh quay đầu chạy ngược lại, không bao lâu đã đến ngã ba, lúc đó nhìn thấy bọn bốn người đang băng bó vết thương, gã vội nói lớn :”Không sao đâu! Tôi chạy nhanh lắm, sẽ đuổi kịp con mụ kia thôi, sẽ đòi được con cóc cho mấy người, cứ ở đó chờ đi nghe.”Không chờ xem bọn người kia nói gì, họ Trần vội chạy biến đi.
Chạy một đoạn, Trần Lĩnh nhìn thấy một người đàn bà ăn vận kỳ lạ theo kiểu người dân tộc Thái đi tới, ngược hướng với gã. Khi hai người đi ngang mặt qua nhau họ Trần chỉ còn nhớ đến bà ta có một nụ cười bí hiểm và rồi chẳng hay biết gì nữa.
*******************
Trần Lĩnh cảm thấy mình đang ở một nơi âm u, tối đen như mực. Rồi gã nghe thấy tiếng ai đó đang gõ mõ, từng nhịp từng nhịp đều đều miên man bất tận... Lần mò trong đám sương khói, cuối cùng Trần Lĩnh thấy được một chút ánh sáng leo lắt, gã cứ đi theo, rất lâu rất lâu sau, gã thoát khỏi cái nơi tăm tối đó. Phía trước là quang cảnh một ngôi chùa, ánh sáng nơi đó lung linh, tuy kiến trúc bề ngoài của ngôi chùa rất giản dị, quy mô cũng không lớn, cây trái, hoa lá quanh chùa đều là những loại thông thường, nhưng gã nhìn đâu cũng thấy đẹp đẽ, tinh khôi… Rồi gã cảm thấy trong người nóng sốt khó chịu, từng hồi từng hồi gã cảm thấy như mình bị những cây kim đâm vào da thịt, càng lúc càng nhiều, càng lúc càng đau, càng ngứa ngáy khó chịu… Rồi gã lại nhìn thấy cảnh lão nhị và lão tứ trong bốn người mất báu vật kia, người họ be bét máu, tay chân họ đứt rời, mặt họ trông rất ghê sợ… Trần Lĩnh hoảng hót la thất thanh a…a a a…
Rồi gã thấy miên man, mù mịt một khung cảnh giống như lớp học, nơi có thầy đồ và chúng bạn, gã thấy một thằng nhóc đâu khoảng mười tuổi, nó đang mặc bộ đồ lấm lem, rách rưới, gã nghe thấy tiếng ông thầy đồ quát lớn:”Tại sao lại mặc bộ đồ dơ dáy rách thối vào lớp học, không thể chấp nhận được, không thể chấp nhận được, mẹ trò đâu sao không vá, không giặt?” Trần Lĩnh hình dung thấy đứa nhỏ lam lũ ấy nói:”Trò không có mẹ?” Lại nghe ông thầy nói:”Bọn ta là nho sĩ, là người có học thức, được nhiều người nễ trọng, phải luôn chú ý đến tác phong, ngươi không xứng, cút ra khỏi đây…Trần Lĩnh lại nghe thấy tiếng cười nhạo “ha ha ha ha” của đám bạn học. Rồi gã lại nghe thấy tiếng cười nói châm chọc :”Vì nó bẩn thỉu, hôi thối nên mẹ nó bỏ nó đi”, “đồ dơ bẩn”, “đồ không có mẹ”, “ha ha ha ha”,… Đứa nhỏ hét lên “Không…. Không... không phải vậy…”
Trần Lĩnh giật mình tỉnh cơn ác mộng, mồ hôi gã đầm đìa trên mặt, hơi thở gã hỗn hễnh, bộ dạng kinh sợ phờ phạt. Hôn mê không biết đã bao lâu, khi tĩnh dậy thì mặt trời đã sắp xuống núi, gã thấy mình nằm trơ trọi trên đám lao sậy, tiếp theo là cảm giác ngứa ngấy khó chịu xâm chiếm, gã đứng dậy vừa gãi vừa nhảy lên nhảy xuống trông rất buồn cười, chắc lúc nằm bất tỉnh gã đã bị anh em nhà kiến tấn công rồi.
“Tại sao mình lại thiếp đi, sao không nhớ gì cả…” Bỗng người đàn bà dân tộc Thái có nụ cười bí hiểm xuất hiện trong tâm trí gã, Trần Lĩnh sợ hãi nghĩ thầm:”Hay là mình đã gặp ma… ôi mẹ ơi, gì thế này… giờ mình phải đi đâu để tìm con cóc đây…” Trần Lĩnh kiểm tra hành trang thì không thấy mất gì, gã thiểu não đi ra đường lộ rồi nhắm hướng mặt trời lặn thẳng tiến.
************************
Hoàng hôn đã giăng kín một màu đỏ chói, trên cánh đồng những cơn gió nhẹ thổi vi vu mát mẽ, lũ chim chóc rối rít gọi nhau cùng đến san sẽ bữa ăn thịnh soạn dành cho chúng, thóc lúa trên những cánh đồng mới gặt xong còn vươn vãi, đối với đàn chim sẽ, còn gì đông vui hơn thế. Trần Lĩnh lẫm bẫm: “Ê cái con sẽ kia, mày thật là tham ăn, của mày có rồi còn giành của người khác, ấy còn con kia, sao mày lười thế, cứ nhảy qua nhảy lại, chơi bời thì làm sao cho no bụng được… hì hì…Bọn chim này có vẻ đang rất hạnh phúc, hạnh phúc của một con chim là gì nhỉ, là một bữa ai thỏa thê… hay là được tự do bay lượn trên bầu trời… còn con người, hạnh phúc của một người là cái giống gì… con người ta sống vì cái khỉ gì nhỉ, vì bát cơm hay vì manh áo… Ý! Sao hôm nay mình lại có cái ý nghĩ sến như vậy, đúng là đi học nhiều rồi suy nghĩ của mình không còn vô tư như xưa nữa … Thật là không đâu vào đâu cả… mà vô tư không lo nghĩ gì để sống có thật sự tốt hay không…?” Trần Lĩnh thong thả bước đi, miên man với suy nghĩ của riêng mình, bóng dáng của gã là duy nhất, là cô độc trên con đường thẳng tắp không biết đâu là tận cùng, hai bên là đồng ruộng vàng óng ánh, lượn sóng và lộng gió, cảnh tượng này thật là phong vị. Trần Lĩnh suy tư về đời mình, gã cảm thấy kỳ quặt, nhưng gã đâu biết rằng, điều đó bình thường đến với đời người, ai rồi cũng có lúc trưởng thành, cũng sẽ suy tư về cuộc đời.
*****************
Càng gần đến nhà, tâm trạng họ Trần càng trở nên tốt hơn, gã nghĩ thầm:”Mình đã có lòng muốn giúp họ, nhưng lực bất tòng tâm, đối thủ quá xảo quyệt, không hề dễ đối phó, thôi quên chuyện này vậy, đất trời rộng lớn biết tìm cô gái kia ở đâu chứ…”Thế là họ Trần gạt đi bí ẩn về con cóc trăm cân ra khỏi tâm trí, cũng như cô gái có râu và người đàn bà bí hiểm gã tin là đồng bọn của cô.
Đi một đoạn khoảng mười trượng họ Trần nhìn thấy rặng tre già phía trước, bên cạnh là con đường ruộng nhỏ bé đi về hướng nam. Gã nghĩ thầm:” Gần đến nhà mình rồi, ôi không biết cha con lâu ngày gặp lại nên nói gì đây nhỉ, chẳng lẽ chạy đến ôm nhau nhảy cẩn lên rồi nói những điều sến đến nổi da gà :”Cha! Con nhớ cha lắm, con quý cha lắm.” Trần Lĩnh vội nhảy sang một bên khom lưng đổi tư thế đóng giả như cha gã :“Ôi con trai yêu quý, cha cũng nhớ con lắm…” họ Trần rùng mình nghĩ thầm: “Nghe đúng là nổi da gà thật…” Rồi gã bỗng nghiêm giọng tỏ vẻ lạnh lùng điềm tĩnh nói :“Cha! con đã về, con đã lớn và đã là một người đàn ông thực thụ rồi… ôi thôi không được, chẳng có tý cảm tình nào cả.”
Đi vài trượng qua vài mẫu ruộng, Trần Lĩnh nhìn thấy cái giếng nước phía trước, nhìn qua thấy rêu phong cũ kỹ, lòng chợt thấy xao xuyến, cái giếng ấy là tuổi thơ tắm mát của gã, những hồi ức cùng nhau nô đùa với đám bạn, làm gã cười sượn sượn, gã chợt thoảng thót:”Ôi không ngờ mọi chuyện đã qua đi rồi, mới đó như ngày hôm qua thôi, thế mà…”
Gần cái giếng cổ là bãi đất trống, chắc nơi đây là trung tâm văn hóa của làng, nơi mọi người già trẻ đến sinh hoạt, cũng là nơi tổ chức lễ hội, tiệc tùng của làng. Có vài người nhìn họ Trần nhưng không ai đến hỏi han, Trần Lĩnh cho rằng họ thấy mặt mũi mình đã khác nên không ai nhận ra, gã nghĩ mình nên về nhà gặp cha trước rồi mới đi chào hỏi hàng xóm.Trần Lĩnh hướng về ngôi nhà phía bắc cách đó độ năm trượng, điều đầu tiên đập vào mắt gã là hàng cau sai quả phía trước, phần lớn đã chuyển màu vàng, chắc lâu quá không có người hái: ”Cha đã già rồi, xương cốt rệu rã làm sao có thể leo trèo được nữa chứ, đáng lẽ mình là người hái cau xuống cho cha ăn ngày đêm, còn phải tự tay tem trầu cho cha nữa mới trọn đạo hiếu, cha đã một đời vất vả vì mình mà, lang thang mấy năm bỏ mặt cha già không ai lo, mình thật là bất hiếu.” Gã xúc động nhớ lại những năm tháng rong chơi phá làng phá xóm, bị người ta đến tận nhà quở trách cha mình, ông không chịu nổi phải dẫn gã đến nhà hai cô em gái của mẹ… càng nghĩ gã càng cảm thấy đau lòng buột miệng gã kêu lên “cha” rồi chạy như bay vào nhà.
Đôi mắt đã đong đầy giếng lệ, chỉ cần một sự kích động nhỏ nữa thôi, là sẽ tuông trào như suối, Trần Lĩnh chạy nhanh vào nhà những chẳng thấy cha gã đâu, tai bỗng nghe tiếng kim khí va chạm nhau chát chúa. Trần Lĩnh nghĩ gì đó vội chạy ra sau nhà miệng không ngớt gọi “cha…”, phía trước gã là hai hàng chuối sát nhau chừa lối đi nhỏ. Gã chỉ chạy khoảng tám bộ thì đã gặp được cha mình.
Một lò rèn nho nhỏ cũ kỹ nhưng được dựng rất kiên cố với những cây cột đá khá lớn, chính giữa là lò lửa đang bừng cháy, ông già râu tóc bạc phơ, khuôn mặt nhăn nheo khắc khổ đang ngồi bên đó, nhìn Trần Lĩnh không chớp mắt.
“Cha… con đã về…cha có nhận ra con không… cha… trông cha già đi nhiều…con…” Trần Lĩnh chầm chậm bước tới nghẹn ngào nói.
“Ô hô hô… không ngờ thằng con cà chớn lại về, về thật đúng lúc quá, tao đang lo sẽ không kịp… mau…khụ khụ… mau lấy cái búa tạ đằng kia lại đây đập phụ với cha mày … nhanh lên… còn đứng đực ra đó làm gì… số nông cụ này phải làm gấp để người ta còn có cái để gặt, rồi còn chuẩn bị vụ mùa mới, trồng dưa, trồng khoai, trồng đậu nữa… ô hay cái thằng này… nhanh lên chứ.”
Trần Lĩnh chừng hửng, cứng cả họng, lát sau gã nói được từ “con…” liền bị ông già ngắt lời :”Con… cái con khỉ gì? Nhanh lên cái thằng này…”
Trần Lĩnh lấy búa, ông già thêm than, thế là tiếng búa tiếng đe đập nhau chan chát kéo dài đến tận khuya.
***************
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Hữu Phong
Một hồi trống vang lên, lúc đó tự nhiên mây đen lũ lược kéo về, trời biến sắc u ám, gió thu mang theo lá khô lung lạc tứ tung, không khí lạnh tràn trề giành lấy uy thế, cậu bé nhỏ tuổi đôi mắt đượm buồn ngẩn đầu lên nhìn cao xanh, khác hẳn với cái cách dân chúng tại quãng trường Quốc Oai(1) này, đang hướng mắt ngạc nhiên nhìn cậu.
Một lão nông bất nhẫn không thốt nên lời: “Thằng bé này, tuổi chắc chưa đến mười hai đâu, nó có thể làm nên chuyện gì mà phải nhận lãnh tội chết.” Chẳng ai trong hàng trăm người dân ở đây có thể xóa tan nghi hoặc trong lòng lão, mọi người bàn tán xôn xao.
“Đinh Long con trai của phản tặc, cha hắn gây tội ác tầy trời, chia rẽ đồng bào dân tộc, kích động chống phá triều đình, cướp bóc hãm hại nhiều người, riêng bản thân hắn, tùy nhỏ tuổi nhưng bản tính hiếu sát, lạnh lùng đã sớm bộc lộ, xét tội trạng cha hắn vốn dĩ bị xử tru di tam tộc, cho nên Đinh Long bị phán tội chết không cần xét xử … Chém!” Vị quan nói xong ném sát lệch ra đằng trước, tay đao phủ cao lớn lực lưỡng đã sẵn tư thế dương thanh đại đao lên cao.
Đại đao chém xuống máu tươi tung tóe xối xả, văng cả vào một số người bên dưới pháp đài, kèm theo tiếng keo “éc éc”, cái đầu be bét máu rơi xuống, cái đầu này có cái miệng rộng cùng chiếc mũi dài và to tướng, nhìn dọc nhìn ngang tuyệt nhiên không giống đầu người.
Nhiều người kinh sợ la thất thanh, nhiều người ngạc nhiên tròn mắt há hốc, còn một số người thì ôm bụng cười như điên như dại.
Viên quan lớn tiếng quát nạt: “Tên điên kia! Ngươi làm cái trò gì thế, tại sao lại ném con heo kia lên pháp đài? Ngươi dám cản trở quan gia thi hành án sao? Người muốn chết chung với hắn hả?”
Người bị xỉ vả là một nam thanh niên tuổi chừng đôi mươi, anh ta mặt mày khá sáng sủa, điển trai với nét hài hòa, ngũ quan chỉnh tề, đặc biệt cặp mày kiếm đẹp như vẽ. Tuy nhiên cách ăn mặt và đầu tóc anh ta trông rất lam lũ, lôi thôi. Thanh niên lung túng, cứ cà lăm “tôi…tôi” một tràng.
Viên quan vội quát: “Lính đâu bắt lấy hắn.” Thanh niên giật mình vội la lớn: “Không … không phải tôi cố ý đâu mà, đừng bắt tôi … tôi còn mẹ già đang bệnh không ai lo... tôi...tôi còn đám heo con không ai chăm, đám cây trồng không ai tưới nước … đám rau muống không ai … không ai ăn, đám … đám cưới thằng bạn không ai dự… tôi … tôi còn cô người yêu nhỏ bé bao năm chưa dám nói… còn có…”
Thanh niên vừa than thở, vừa nhăn mặt, con mắt gã láo luyên, tay chân gã cuống cuồng, Viên quan vừa tức điên tiết nhưng cũng thấy buồn cười, ông cố nén giọng trầm tỉnh rồi nhanh nhảu nói: “Yên tâm! Đám ma của ngươi sẽ có người lo … lời yêu chưa nói, ông nói dùm cho… lính đâu bắt lấy hắn…”
“Khoan!” Thanh niên chợt thay đổi thái độ, vừa rồi gã lúi cúi năng nỉ ỉ oi, nhưng giờ gã đứng thẳng ưỡn ngực, ngẩn cao đầu nói giọng nghiêm nghị: ”Nam nhi trong trời đất có gan làm có gan chịu, tôi đây gặp hung hiểm quyết chẳng chao mày đâu, các vị thấy cậu bé này có tội nghiệp không, cha là cha con là con cớ sao tội cha bắt con cái gánh chứ … công đạo trời đất ở đâu, lòng người ở đâu chứ!”
Mọi người giật mình khi nghe gã thốt ra những lời đó. Tội bị phán gã dám chống thì tự tìm đường chết rồi, không hiểu gã ăn gì mà to gan đến thế.
Viên quan tỉnh bơ đáp: ”Lúc nãy ta định nhốt tù ngươi vài ngày rồi tha… nhưng giờ ta đổi ý rồi, ngươi chắc chắn là đồng đảng của cha con bọn chúng… lính đâu bắt trói… xử trảm luôn tên này!”
Thanh niên còn làm mặt ngầu, đến lúc nghe hết câu viên quan kia nói thì rụng rời tay chân, miệng phân trần: “Không biết hôm nay tôi ăn nhầm cái gì… đại quan tha tội cho tôi … tôi còn mẹ già …”
"Im ngay" Viên quan quát lớn, mặt đỏ phừng lên vì giận. Thanh niên cúi gầm đầu không nói, giây lát sau gã từ từ đi đến pháp đài, tay phải đưa lên ra hiệu ngừng tay. Mọi người không hiểu gã kia làm gì, ai nấy im lặng xem gã giỡ trò gì nữa.
Thanh niên dùng tay móc trong ngực áo ra một cái túi lụa cẩm màu đỏ nho nhỏ và nói: "Vật này có thể chứng mình thằng bé tội nghiệp trên kia là vô tội, các người đã bắt lầm người rồi."
Mọi người tại pháp đình trố mắt ngạc nhiên nhìn gã bán heo.Cậu bé đang chịu tội từ nãy đến giờ vẫn giữ thái độ lạnh lùng bất cần, nhưng giờ đây vẻ mặt cậu đã thay đổi, ném ánh mắt kì lạ nhìn gã kia .
Viên quan nghiêm giọng nói: "Người đừng tào lao, bọn ta đã vào tận sầu huyệt của chúng, đã âm thầm cho người giả... giả... mà ta cần gì phải đôi co với ngươi chứ... lính đâu..."
"Khoan!" Gã bán heo bình tĩnh nói: "Trong này có cái gì mọi người biết không, à... mà tôi không nói sao mọi người biết được, cái này chỉ có cha mẹ tôi và tôi biết thôi mà... ha ha ..."
Viên quan nóng nảy: "Tên khốn nói gì nói nhanh... không ... người không được nói... ối trời ơi!... lính đâu, bắt..."
"Xin quan ông hãy bình tâm, để tôi nói hết, nếu không người sẽ hối hận đấy. Tôi nói cho mọi người hay... cha mẹ tôi đẻ tôi ra, họ khó khăn nuôi tôi lớn... tôi lớn lên... cho đến khi họ đẻ em trai tôi ra, họ khó khăn nuôi em tôi lớn lên, em tôi..."
"Lính đâu bắt thằng điên này lại ngay...bọn người còn chậm trễ đừng có trách ta..." Viên quan đứng phất dậy, gào lên chỉ trỏ. Bọn lính lần này không do dự nữa, cả thẩy cùng chạy thi nhau chộp lấy gã bán heo. "Vụt một cái tên này phi thân lên pháp đài cao nửa trượng. Gã ta đứng chắn trước cậu bé họ Đinh, rồi từ tốn quay về phía người dân và nói: "Thưa các vị! Các vị nhìn đây là cái gì ?" Gã bán heo móc trong túi cẩm ra một vật, mọi người khi nhìn rõ lập tức bàn tán xôn xao, nào có người nói "ruột heo khô mà", rồi "da heo để lâu ngày", hắn bán heo lấy thịt heo khô ra có gì lạ chứ", "cái này thì chứng mình được gì chứ?" ...
Thanh niên bán heo từ tốn nói: "Cái này là ruột người chứ không phải là của heo đâu... chính xác là cái dây rốn hai mươi năm của tôi... của tôi và của em trai tôi..." Ai nấy nghe gã nói đều há hốc, viên quan phát điên gào lên định sấn tới, đám lính vừa chạy lên, thanh niên quái đản kia không thèm nhìn đến một cái, gã thản nhiên nhảy xuống pháp đài rồi nói tiếp: "Dù bạn có đi xa, dù bạn có thành công như thế nào đi nữa, có giỏi giang như thế nào đi nữa, có... có sao thì bạn cũng chỉ có một quê hương, quê hương là nơi chúng ta chôn nhâu cắt rốn... hịt hịt, nói đến đây tôi không thế nào cầm được nước mắt... xin lỗi các vị, nhất là các vị bô lão đạo cao chức trọng... tôi đã đi rất lâu và rất xa để tìm đứa em này, thưa các vị ... nó chính là em ruột của tôi..." Gã nói rồi chỉ thẳng tay vào cậu bé đang bị trói, mọi người ngạc nhiên há hốc, một số thì cười ngạo nghễ, một số thì lắc đầu ngán ngẫm "tên này điên rồi!"
"Các vị biết đấy, cũng như các gia đình khác, ông bà chúng ta có tục lệ, anh em đốt rốn với nhau rồi uống cùng nhau để thương yêu nhau, hòa thuận với nhau ... nhưng chúng tôi mười mấy năm lý tán, từ ngay lúc còn tấm bé, nếu các vị là tôi các vị có buồn không cơ chứ... hít hít... buồn lắm các vị ơi..."
Viên quan lạnh lùng nói "Vậy ngươi là anh nó, anh em cùng đi đoạn tụ với ông bà nhé!" và kề đao vào cổ thanh niên, anh ta không biết vị quan kia ở phía sau mình từ lúc nào.
Thanh niên hoảng hót: "Không! Tôi họ Trần mà, có phải họ Đinh đâu, mà không ! Là cả hai anh em tôi đều họ Trần mới đúng!"
“Câm!” Viên quan mắt tóe lửa, gầm lên một tiếng uy mãnh. Ngay lúc đó có vật gì đó bay đến, viên quan phản xạ không tồi, vội lạng đầu né tránh, thanh chủy thủ bay ngang qua lọng tóc ông ta, gió lạnh căm người.
“Những ai không liên quan mau chạy đi, nếu không muốn uổng mạng!” Giọng nói là của một cô gái trẻ, chạy cạnh cô ta là một ông lão râu tóc bạc phơ, sau lưng họ còn có đến cả chục nam nhân mang gươm mang giáo mặt mũi hung tợn đang chạy đến.
Người dân la ó chạy tán loạng, gã nuôi heo mừng rỡ ra mặt, nhân cơ hội này ba chân bốn cẳng gã giành nhau tẩu thoát.
Bên quan binh dường như đã có chuẩn bị, sau tiếng hô của viên quan mọi người đều xông lên giáp đấu. Viên quan tấn công cô gái, tên đao phủ đấu với lão già, tiếp sau màn chạm trán, tiếng la ó inh ỏi, tiếng kim khí chạm nhau chan chát.
Cuộc giao tranh vừa mới bắt đầu nhưng dường như đã muốn kết thúc. Viên quan và tay đao phủ sau mười chiêu đã kém thế, lão già bên mới đến tuy thấp bé nhẹ cân nhưng mỗi chiêu lão đánh ra uy lực mãnh liệt, tay đao phủ to xác nhưng mỗi lần binh khí đôi bên chạm nhau thì hắn như muốn đứng không vững. Gươm đao đôi bên chạm nhau thêm lần nữa, lúc này đạo phủ đã thất thế thấy rõ, hắn chỉ còn trụ nửa chân, ông già xoay chuyển gươm đi chênh chếch xuống hạ bộ đối phương chém một nhác ngang hông, bồi thêm hai cước thay phiên nhưng nhanh như cùng lúc. Thân hình to lớn của đao phủ đổ sầm. Ông già dường như vẫn chưa múa hết chiêu thức liên hoàn, có lẽ do thói quen lão bước đến một bước, hơi xuyên một chút hướng đến cái lưng viên quan đang trong tư thế bị dồn ép, lão già đá cước hậu, cùng lúc thanh gươm trong tay chém ngang từ sau hướng nửa vòng đến cái lưng dưới của viên quan. Hai mặt giáp công, phía trước viên võ quan bị chém trúng ngực. Cả hai vết thương đều có thể lấy mạng, viên quan ngục xuống nhưng vẫn chưa chết hắn, ông ta cũng chẳng hề rên rỉ.
Binh lính thất thủ chạy tán loạn. Bọn người mới đến không đuổi theo. Cô gái vội đến mở trói cho cậu bé và nói: “Cậu chủ không sao chứ! Bọn tôi chậm trễ đã làm cậu kinh sợ rồi …”
Cậu bé cười nhép miệng nói: “Cần gì nói những lời dư thừa … bọn các người diễn kịch hay lắm… thật là hay … ha ha… cả cái tên bán heo kia nữa hắn làm ta cười đến sái quai hàm mất… cả tên quan kia cũng được mời tham gia vỡ kịch này có phải không?” Nói rồi cậu bé khó khăn lê từng bước chân đi về hướng tây lúc này trời đã xế chiều.
Đám người mới đến sững sốt nói không nên lời. Họ đi theo nhưng cậu bé cứ quát nạt, càng nói càng buông lời thậm tệ, khó nghe. Cậu không cho bọn kia đi theo mình. Cô gái đành đứng lại, mắt cô sa lệ, ông già thì thở dài ngao ngán.
***************
Cậu bé cứ đi, cậu cứ lê từng bước chân nặng nhọc, cậu cũng chẳng thèm ngoái đầu xem có ai đi theo mình không.
Từng bước chân là từng thời khắc trôi qua, từng con đường là từng cánh rừng cậu đã đi qua, từng con suối là từng dốc núi cậu đã leo lên, cứ thế cậu vẫn đi dù đôi chân mệt mỏi khôn cùng. Lúc nào đói khát thì cậu tìm thức ăn nước uống, cậu bé nhỏ tuổi cứ đi, đi đến một nơi gọi là vô định, đi đến một nơi, nơi đó không đo bằng dặm mà đo bằng sức chịu đựng của đôi chân nhỏ bé.
Thời khắc kéo nhau đi, ngày đẩy tháng trôi qua, cậu bé đã đi rất xa, rất lâu, đến nơi núi cao sông dài, nơi làng quê hẻo lánh hay nơi phồn hoa đô hội, đều đã có dấu chân của cậu.
Đích đến đã gần, cậu bé đã không chịu đựng được lâu nữa. Lang thang rất lâu, ăn uống nghĩ ngơi không đủ, khiến sức lực cậu suy kiệt. Đã đến lúc đôi chân buột cậu phải ngã quỵ xuống.
Hai mi mắt cậu bé dần khép lại, cậu đã buông xuôi, tấm thân nhỏ bé chơi vơi sắp ngã rồi. Khi thần thức sắp ngủ mê cậu bé họ Đinh cảm nhận thấy bàn tay ai đó chộp lấy người mình. Cậu nghe tiếng nói “cậu gì ơi… cậu có sao không?” Rồi cậu bé cảm nhận thấy ai đó đang lay động mình. Rồi cậu chìm trong mê man.
************
Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua … Đinh Long mở mắt sau giấc ngủ dài. Điều đầu tiên cậu cảm nhận được là quang cảnh hoang tàn xung quanh. Tai cậu nghe thấy giọng nói trẻ con.
“Ha ha … bụng lão to như cái trống, thân người thì lùn tủn, đôi mắt híp lại thế này này … còn cái mũi lão thì thôi đi, nó rộng như ống thổi lửa, chưa hết đâu lông mũi dài ra cả tấc thế này nề, còn mỗi khi lão thở ra là mùi hối thối không ai chịu nổi, cha tôi đứng xa cũng phải đưa tay lên bịt miệng. Lão cực kỳ hùng tợn… lão gầm lên như mãnh thú… Cha tôi các cậu biết rồi đấy, ông rất ghét bọn phú hộ hay lồng quyền ức hại dân lành … Lão ta lao vào cha tôi và kêu lên như heo hạch bị chọc tiết. Cha tôi võ nghệ cao cường, ông bình tĩnh lắm… chờ lão đến gần, cha tôi liền nhào lộn trên không trung đạp cho lão một cái như trời giáng, cả thân người to lớn của lão ta ngã xuống úp mặt vào đống phân trâu… ha ha… cái mũi lão to tướng, hít vài hơi là mùi phân vào hết trong bụng, khỏi cần ăn cả tháng cũng không thấy đói … chưa hết sau cú đá đó thân người lão nặng nề quá cộng với sức mạnh của cha tôi khiến cho trời đất như rung chuyển, các cậu thấy ghế ghớm không…”
Đứa trẻ khác nói chen vào: “Có thế thôi à, đánh một cái thôi à…”
Giọng đứa trẻ lúc nãy: “Chưa đâu… tất nhiên là chưa rồi... cái cậu này tài lanh quá… chưa hết đâu, bọn hậu vệ của lão phú hộ rất đông… có nhiều cao thủ… Chúng xông lên, cha tôi lúc đó cảm thấy đau bụng… muốn ói, muốn đi ngoài!”
“Gì thế đang đánh nhau mà thấy đau bụng là sao… cha cậu kỳ quá!” Có giọng nói của một cô bé nhỏ tuổi.
Đứa trẻ kia lại nói: “Thì kể phải có đầu đuôi chứ… chắc có lẽ do mùi hôi thối do lão phú hộ khò… khò thế này nề… có thấy hôi không?
“Ấy hôi quá đi! U Ám vô duyên quá…” Cô bé kia nói nhưng giọng điệu không tỏ vẻ khó chịu cho lắm.
Cậu bé kia nói tiếp: “Miệng tớ thơm tho, nói năng trung thực thế này mà còn hôi huống hồ cái lão phú ông chuyên lừa gạt, bắt nạt dân làng. Thế đấy! Làm sao cha tớ chịu nỗi.
Đinh Long nghe đến không nhịn được nữa, ôm bụng cười khanh khách.
Chú thích:
(1)Lộ Quốc oai: Thuộc lưu vực sông Đáy và Tỉnh Hà Tây (cũ)
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Hữu Phong
Nơi đây là một ngôi chùa nhỏ bị bỏ hoang đã lâu, bụi thời gian phủ đầy khắp nơi. Chỗ che thân hoang tàn này là mái ấm của bọn trẻ không nơi nương tựa, chúng tụ tập lại với nhau, tự đùm bọc nhau.
“Cậu ấy đã khỏe lại rồi … thật may quá!” Giọng nói là của cô bé có thân người nhỏ nhắn chừng mười tuổi, khuôn mặt lấm lem, quần áo vá chằng vá chịt nhưng so với hai đứa con trai để tóc “ba chỏm” bên cạnh thì sạch sẽ hơn rất nhiều.
Đinh Long tỏ ra e ngại cứ “ậm ự”. Giờ đây dáng vẻ của cậu còn tệ hơn cả những người bạn mới trước mắt, quần áo cậu rách nát, bẩn thiểu và lôi thôi.
“Hi hi … Tôi là Phương Đông U Ám, còn cậu tên gì vậy!” Cậu bé vừa kể chuyện, vui vẻ lại gần Long và mở lời, cậu ta có nước da đen cháy nắng, và cặp mắt sáng đến kỳ lạ.
Đinh Long lấy làm lạ, lẩm bẩm: “U Ám … U Ám … cái tên gì thật kỳ cục …”
“Kỳ cục lắm sao? Ai cũng nói vậy …” Cậu nhóc mặt đen cười nói, Long không ngờ mình nói nhỏ nhưng lại bị nghe thấy, cậu cảm thấy bối rối, ngập ngừng cậu nói như gỡ gạt: “Tôi không có ý đó … chỉ là nghe thấy cái tên cậu lạ quá … ai lại đặt tên …” U Ám cướp lời: “Tên xấu lắm sao? Đó là cha tôi đã đặt cho đấy… dù sao cũng có cái để gọi… vả lại mẹ tôi bảo, tên xấu mới dễ nuôi, không sợ ma quỷ bắt mất… hì hì… Thế cậu tên gì?”
“Tôi … tôi là Long!” Cậu bé họ Đinh ngập ngừng nói, bé gái nhanh nhẩu cười hớn hở nói: “Tôi là Phượng, hi hi, còn cậu ta là Tí.” Cô bé chỉ tay vào đứa nhóc còn lại, cậu bé này lùn nhất, mặt trông hiền lành chất phát. “Ha ha… Phượng ròm… Phượng ròm …” Hai đứa đầu ba chỏm thi nhau làm mặt hề ghẹo cô bé, Phượng đỏ mặt xấu hổ nắm lấy cây chổi cùn dưới đất đuổi đánh khiến hai cậu bé chạy tán loạn, vừa chạy vừa không quên chọc thêm “Phượng ròm”, “Phượng beo”. Chúng chọc cô bé mà không nghĩ đến bản thân mình cũng gầy tong gầy teo không kém.
“Các cậu đã đưa tôi về đây à!” Câu nói của Long làm ba đứa trẻ dừng cuộc đuổi bắt lại. Cậu bé tên Ám nói: “Ừ… người cậu cũng ốm nhom nhưng sao nặng quá … làm chúng tôi cõng không nổi, đành phải dùng cán khiên về. Hai đứa kia đồng thanh “Đúng đấy! Nặng muốn chết à!”
Long không nói gì, lẳng lặng suy tư. Cậu ta không nói cảm ơn, ba đứa còn lại cũng không để ý gì, chúng vẫn vô tư như thế.
Thấy Long có vẻ buồn Ám nói: “Này! Làm gì vậy? Nhớ nhà hả… Đúng rồi chắc là đói bụng chứ gì.” Bỗng nghe tiếng “ọc ọc”, âm thanh không phát từ phía Long mà là bên cạnh Ám, Phượng lại một phen đỏ mặt, Ám cười liếc mắt láo luyến nhìn Phượng làm cô bé xấu hổ quay mặt đi.”
“Chúng ta lên chùa ăn cơm nhé! Vừa đi tớ sẽ kể chuyện tiếp cho các cậu nghe, có chịu không?” Ám nói, Tí cười, Long ậm ự, Phượng im lặng, nhưng rồi cả bọn cũng kéo nhau đi.
Đinh Long cảm thấy một cảm giác kỳ lạ, vừa mới mẽ vừa thân thương. Bởi lẽ trong mắt cậu từ trước đến gì chỉ toàn là những cảnh đua tranh, mưu đoạt, đấu đá, đả kích nhau. Sự hồn nhiên đáng lẽ phải có ở cái tuổi của cậu đã bị cướp đoạt không tiếc thương. Giờ đây hòa nhập với bọn nhóc ngây ngô, cậu cảm tưởng như mình là sinh vật từ dưới địa ngục chui lên vậy.
“Kể toàn chuyện đánh nhau với ác bá cũng chán, tôi sẽ kể cho các cậu nghe những chiến công hiển hách của cha tôi… cha tôi đã từng đánh bại rất nhiều quái vật hung ác ở biển cả rộng lớn… hà hà…” Phương Đông U Ám nói giọng tự hào, bọn hai đứa reo lên “hay quá kể nhanh đi”. Đinh Long cũng cố reo lên theo, nhưng tiếng nói cậu nho nhỏ và bối rối, chả có được cảm giác hân hoan nào.
Ám quay sang Long và nói: “Cậu làm cái gì vậy, đàn ông con trai ăn nói gì lí nhí như sợ bị nghe thấy vậy, phải mạnh mẽ lên chứ… xem tôi này … Tuyệt với quá Ám đẹp trai ơi! Mau kể nhanh đi!... Thế đấy phải nói như vậy.” Cậu bé họ Phương la lên hết sức có thể, cậu còn sửa lại câu nói hoành tráng hơn chính bản rất nhiều. Hai đứa kia đưa tay lên bịt tai nhăn mặt, riêng Long vẫn bối rối chẳng biết tính sao, cậu ta quen được mọi người nề trọng vì thân phận khác thường, tự nhiên bị chê bai thế này liền có cảm giác tự ái.
Long quay đầu định bỏ đi, nhưng rồi cậu cảm thấy như vậy là quá hèn nhát. Long nắm chặt hai bàn tay mình lại và hít một hơi: “Hay quá Ám ơi! Mau kể cho Long đẹp trai nghe đi.” Tiếng quát chứa đầy khí thế sung mãn thanh âm lớn đến mức màn nhĩ ba đứa trẻ đứng gần như muốn tung ra ngoài tai. Một lúc sau chúng vẫn còn nghe thấy lùng bùng.
“Không ngờ ngoài tôi ra cũng có người la lớn đến vậy! Ha ha khá lắm, cố gắn lên!” Ám nói rồi vỗ vai Long tỏ vẻ mình là cao thủ nổi trội hơn, bọn trẻ cùng nhau cười khanh khách.
“Tổ cha chúng mày, trưa nắng là lối om sòm, mau cút cho người khác nghỉ!” Có tiếng quát của một lão bà từ ngôi nhà cạnh đó, bọn trẻ kéo nhau vừa chạy vừa cười ha hả.
Bọn nhóc kéo nhau đi qua rất nhiều con đường đất ngắn đoạn, chúng vừa đi vừa nhảy nhót, nói đủ chuyện trên trời dưới đất. Long không nhớ mình đã đi qua những đâu, bởi vì tất cả sự chú ý của cậu đều đã dồn hết vào Ám, càng lúc Long càng thấy người bạn mới này thật thú vị, cậu ta tùy ba hoa nhưng lại mang đến cho Long cảm giác gần gủi, đôi khi còn chê bai coi thường Long đủ điều nhưng thà thẳng thừng như thế còn hơn hàng trăm người cung kính, nể trọng ngoài mặt, còn trong lòng họ tính toán điều gì đều không thể qua mặt được đầu óc nhạy cảm của cậu. Long cảm thấy cái tên U Ám của cậu ta chẳng xứng với người, nên gọi là Phương Đông cho dễ nghe, nhưng dường như Ám chẳng bận tâm điều đó.
Một lúc lâu, khi đi qua hết những con phố nhà san sát, trước mặt bọn trẻ hiện ra những cánh đồng lúa thênh thang, xa xa thấp thoáng bóng dáng một ngôi chùa cổ nằm giữa những mẫu ruộng. Nhà Lý xem đạo Phật là quốc giáo, nhà chùa được vua ban cho ruộng đất để tu sĩ tự canh tác, đất chùa không thuộc sử hữu tư cũng chẳng thuộc sơ hữu công, nó được xem như đất cúng vườn tam bảo.
“Đó là nơi sư thầy cụt tay tu hành, ông ấy đối xử với bọn tôi rất tốt, lúc nào cũng để nhiều cơm, ăn không hết lại mang về, từ nay có thêm cậu nhập bọn chắc ông ấy vui lắm. Chúng ta đến ăn cơm, giúp thầy dọn dẹp rồi phơi nhang. Cậu đừng có lười đấy!” Giọng nói của U Ám có vẻ nghiêm túc, không cười cợt như trước, Long thấy tò mò, cậu thử tưởng tượng xem thầy tu là người như thế nào, vì đây là lần đầu tiên cậu đi ra thế giới bên ngoài.
Cả bọn không đi cổng chính, mà vào từ cửa sau, điều đầu tiên đập vào mắt Long là sự cổ kính của ngôi chùa này, khắp nơi sạch sẽ thoáng mát, chim chóc cây trái hiền hòa vui tươi đầy sức sống. Quanh chùa nào là lư hương nào là tượng Phật độc đáo và đẹp mắt, Long cảm thấy thích thú, mới mẽ vô cùng.
Ngắm chưa đã mắt Ám đã dẫn cả bọn đi vào khu nhà bếp. Khác hẳn những khu nấu nướng trước đây Long từng biết, ở đây chẳng ngửi được mùi hôi tanh, chẳng thấy có máu me và chẳng nghe được tiếng kêu của gia súc. Nơi đây bề thế chừng năm trượng vuông, ngoài khu ăn uống rộng rãi của các tu sĩ, còn có ba gian phòng, cả bọn đi vào căn phòng hướng đông, bất thần một cảm giác kỳ lạ liền đến với Long. Là con cháu nhà nội gia võ thuật cậu cảm nhận chắc chắn đang có một cao thủ ở trong phòng, người đó đang thi triển tâm pháp nội công thượng thặng mà đời cậu chưa gặp qua, không nhìn thấy bóng dáng hay tư thế người đó nhưng với sự nhạy cảm đặc biệt của mình, Long nhận ra đây có thể là một cuộc tạo ngộ không hề dễ dàng đủ duyên để có được.
“Chúng con đã đến rồi sư ông ơi!” Ám đã thốt lời ra khỏi miệng, Long định ngăn lại nhưng không kịp. Nghe tiếng gió và tiếng cửa mở cả bọn tiếng vào bếp phòng, Long xông vào trước nhưng chỉ thấy một ông lão cụt tay phải mặt áo xám, đầu không có tóc, râu trắng dài nửa gang. Mắt cậu nhìn về phía cửa sổ thì thấy cánh cửa vẫn còn lây động, chắc chắn theo suy đoán của mình, có ai đó vừa phi thân ra ngoài.
“Mộ Phật! Tốt lắm! Tốt lắm!” Vị sư cất trọng thâm trầm già nua. Long không cảm nhận được gì khác lạ từ ông.
“Đây là Long, người bạn mới mà con đã nhắc với sư ông hôm qua. Nhờ thuốc của sư ông mà cậu ta đã khỏe lại rồi!” Ám cười nói, rồi quay sang, chỉ thấy Long mặt đầy tâm sự, chẳng để ý gì, Ám lấy tay mặt đánh vào sau lưng Long và nói: “Cái cậu này, đầu óc để trên mây à, sao không mau cám ơn sư ông đi!”
Long như người trên trời rơi xuống, cậu chẳng được dạy là phải cám ơn người đã giúp đỡ mình, nên không có một phản xạ nào cả.
Luống cuống một hồi Long mới nói “cám… cám ơn”, Ám cau mày tỏ ra khó chịu, vị sư mĩm cười hiền hòa nói :”Mô Phật! Khỏe rồi thì tốt lắm! Tốt Lắm!”
************
Sau tiếng chuông báo giờ dùng bữa không lâu, thực phòng đã đông đủ các vị sự già trẻ lớn bé. Long cảm thấy kỳ lạ khi đông người như vậy nhưng chẳng hề có không khí ồn ào, náo nhiệt. Ai nấy đều tự túc lấy phần cơm của mình, rồi ngồi vào bàn ngay ngắn, yên lặng dùng bữa. Xong xuôi mọi người tự dọn dẹp và rời khỏi không gây nên một tiếng động to tác.
Bọn ba đứa Ám, Phượng và Tí cũng vậy, thấy họ không nói lời nào nên Long cũng yên lặng dùng bữa, trong lòng hiện diện bao nhiêu lạ thắc mắt không thể nào hiểu nổi.
“Mô Phật! Các con đi theo thầy!” Vị sư già cất tiếng nói, cả bọn đáp “dạ” rồi xếp hàng theo sau sư ông.”
Họ đi qua rất nhiều gian phòng lớn nhỏ, Long không quên nhìn ngắm khắp nơi, cái gì nhìn thấy cũng mới mẽ đối với cậu. Một lúc sau họ đi đến toa nhà lớn nhất, Long nhìn lên tấm bảng có ba chữ “Đại Bảo Điện”.
Vừa vào trong, một pho tương Phật hoành tráng, cao đến hơn hai trượng hiện ra, kim quang sáng loáng khiến bọn trẻ ngơ ngác, Long thì không nói làm gì, bọn ba đứa kia cũng lần đầu tiên đến đây. Phượng giật mình thoảng thốt: “Ôi bức tượng đẹp quá, đẹp và to gấp trăm lần bức tượng ở chùa chúng ta!”
Long nghe thấy kỳ lạ: “Chùa chúng ta! Chúng ta cũng có chùa sao?” Ngầm nghĩ giây lát cậu mới thông suốt: “Hóa ra cái chỗ lúc sáng mình ở cũng là chùa, đúng là cũng có một số vật dụng và pho tượng giống nơi đây.”
Vị sư mĩm cười nói: “Mô Phật! Đẹp hay xấu cũng là một bức tượng mà thôi!”
Phượng nói: “Nhưng nhìn tượng đẹp vẫn thích hơn, thưa sư ông!” Vị sư lại nói: “Mô Phật! Vì yêu thì thích nên khổ tâm gìn giữ, đến khi mất rồi thì lại tiếc nuối. Đừng bận lòng chi cho khổ não.”
Đinh Long nghe xong chấn động tâm thần. Cậu nghĩ đến một việc trong quá khứ, lúc đó cậu chỉ mười tuổi, cha về mang cho cậu một con ngựa gỗ, cậu đã thích nó lắm, tuy là đồ vật vô tri nhưng bên cạnh nó, chơi đùa với nó, cậu cảm nhận được sự hiện diện của cha mình. Nó không nói gì nhưng không khiến cấu khó chịu như những lời nói diệu dàng của bọn người giả dối, vì thế cậu cố gắn gìn giữ kỷ vật của cha, một bước không xa rời. Rồi một hôm con ngựa gỗ trở thành đống gỗ nát, cậu nghe tin dữ báo về, cha cậu đã bị bọn hắc giáo đánh bại, chúng đã bắt ông rồi, họ nói ông sẽ không về nữa.
“Mô Phật! Long! Con họ gì?” Vị sư cất giọng thâm trầm, lại gọi đúng tên mình khiến Long ngơ ngát, ấp úng nói: “Họ… họ Đinh thưa…” Hai tiếng “sư ông” cậu bé không đưa ra ngoài miệng được.
Vị sư xoa đầu Long, hiền hòa nói: “Mô Phật! Con thật là một đứa trẻ đặt biệt, chúng ta cùng thắp nhang, lạy Phật rồi nói chuyện nhé!”
Vị sư đi đến nắm bó hương đưa lên ngọn đèn rồi chia cho mỗi đứa trẻ. Đây là lần đầu tiên bọn trẻ dâng hương, nhưng ngoài Long ra bọn ba đứa kia lanh lợi, chúng nhanh chóng làm đúng theo động tác của lão sư.
Khi cúi người sát đất, Đinh Long giật mình kinh hãi khi thấy những luống hơi nóng trong người mình dao động, cậu chỉ luyện khí công được hai năm nay thôi. Chẳng thấy được tí tiến triển nào, chẳng cảm nhận được luống khí huống hồ dẫn nó di tản theo các đường kinh mạch.
Nhưng giờ đây luống khí mạnh mẽ đang di chuyển khắp người cậu, chẳng có chút kinh nghiệm nào, cậu không còn cách nào khác, ngoài để mặc cho chúng tán loạn trong mình. Trán Long đồ mồ hôi hột, mắt lộ vẻ kinh dị, hoảng hồn.
Vị sư nói: “Mô Phật! Người dạy cho con không nói tâm pháp điều khí hay sao? Đã luyện đến bốn thành hỏa hầu rồi, chẳng lẽ lại không biết cách dẫn dắt vào khí hải (1)”
Hỏa khí bốc lên đầu, khuôn mặt Long biến sắt, ánh mắt trợn trắng lên trông rất hụng tợn, cả người co giật từng cơn, rồi cậu bé ngã bật ra.
Vị sư già vội đến bắt mạch, hai mắt ông thoáng biến sắc, bọn trẻ giật mình sợ hãi không biết chuyện gì đang xẩy ra.
Thần thức dần mê mờ, Long tự nhiên cảm nhận luồng khí ấm từ lưng đi vào người, bàn tay ai đó đang xoa dọc sống lưng mình, tiếp theo sáu điểm từ trán lên đỉnh đầu ra sau gáy rồi xuống dọc sống lưng nóng ran lên. Cậu cảm thấy những luống hơi nóng khắp cơ thể đang tề tựu về sáu nơi đó, càng lúc càng nóng, càng lúc càng lũ lược kéo về.
Sau thời gian dùng một bữa cơm, Long dần lấy lại tự chủ, nhưng không dám nhúc nhích, những luống khí càng ngày càng giảm, nhưng sáu chỗ từ trán đến sống lưng thì càng nóng thêm lên. Vị sư xoay chuyển thân người, bàn tay ông bắt đầu xoa bóp trán, đỉnh đầu, sau gáy và ba điểm trên sống lưng cậu.
Cảm giác nóng ran dần tan biến, Long cảm thấy trong người thư thái, tinh thần sáng khoái vô cùng, cậu cảm thấy tràn trề sức lực, như biến thành một con người khác.
“Phù… Mô Phật! Thật may quá…” Vị sư thở phào, mặt ông giờ trắng bệch không chút huyệt sắc. Long nhìn vị sư già với ánh mắt đầy cảm kích nói: “Cám… cháu cám ơn ông!”
“Mô Phật! Gần đến giờ thiền, chúng ta nên ra ngoài nói chuyện.” Vị sư nói rồi chầm chậm đi ra, bọn trẻ thi nhau đi sau, Long thì cũng phần nào hình dung được chuyện gì đã đến với mình, còn ba đứa kia thì ngơ ngác chẳng hiểu gì, bụng chúng chứa đầy những thắt mắt.
Ra hoa viên vị sư cất tiếng niệm Phật: “Mô Phật! Từ nay con đừng luyện công nữa, đã quá muộn rồi, hỏa hầu đã khai mở đến bốn thành, nhưng con không hề có một chút hiểu biết về vận khí cả! Phải hiểu rằng luyện khí và dẫn khí là hai việc cùng lúc, tiến bộ từ từ, có trình tự, thứ lớp. Ta không biết vì sao con lại bỏ qua việc vận khí, giờ đây nội khí đã quá mạnh, không thể tự sức con dẫn đi được nữa, con hiểu không? Ta chỉ tạm thời đưa chúng vào vòng xoay của sáu luân xa(2), sáu điểm nóng trong người con lúc nãy. Khí hải của con không thể dung chứa nổi những dòng khí tà môn đó. Nếu tiếp tục con có thể làm hại chính mình, làm hại người khác. Nên dừng lại ở đây, con có hiểu không?”
“Có nghĩa là tự nay con trở thành phế nhân, không thể luyện võ nữa!” Đinh Long hụt hẫn nói như van nài.
Vị sư diệu giọng: “Con vẫn có thể luyện quyền cước, thậm chí có thể giỏi hơn rất nhiều người nếu con cố gắn, ta tin tư chất con không tệ, sắp tới vào những buổi sáng sau khóa thiền, các con cứ đến đây học với các chú tiểu khác, nên nhớ luyện võ để nâng cao sức khỏe, để phòng thân, không phải để thi thố hay dung dưỡng “cái tôi” của mình. Thôi đã đến giờ thầy phải tọa thiền, các con về đi nhé.”
Bọn ba đứa hớn hở đáp “dạ”, chúng chào vị sư rồi kéo nhau ra về, Ám kéo tay Long, cậu bé họ Đinh buồn bã nối gót đi theo.
Nhìn theo bóng dáng những đứa trẻ dần khuất, vị sư cất tiếng niệm Phật và nói: “Mô Phật! Hai vị cư sĩ, xin mời xuống đây tương kiến.”
“Không cần lão gọi, bọn này đang muốn tính sổ với lão đây!” Nghe thanh âm của phụ nữ, tiếp theo hai bóng người một nam một nữ, một già một trẻ từ trên nóc điện phi thân xuống thủ thế.
“Mô Phật! Một đứa trẻ, tâm hồn như tờ giấy trắng, nó không có tội tình gì cớ sao phải bị vấy đục bởi những toan tính của người lớn!”
“Lão thì biết cái gì, chuyện của bổn hội chúng tôi không cần lão can dự vào. Công lực cậu chủ đã đến bốn thành, không bao lâu nữa có thể trả thù cho hội chủ và những người anh em đã khuất trong hội.” Lão già bên kia nói lớn, cô gái trợ ngôn: “Đúng vậy! Tìm ra một người để luyện công phu này không hề dễ dàng, tương lai giáo hội chúng tôi đều trông cậy vào cậu ấy, lão không có quyền phá hỏng!”
Hai người này không phải là ai khác, chính là bọn đã cướp pháp trường, giải cứu cho Đinh Long tháng trước. Họ vẫn âm thầm đi theo và giúp đỡ cậu bé miêng cơm, cốc nước. Có điều hành động của họ quá kín kẽ, một cậu bé không có kinh nghiệm giang hồ, chẳng thể nào phát giác được.
“Mô Phật! Một đứa trẻ hiền lành sẽ đánh mất tâm tính, trở nên vô cảm, độc ác, nó càng thành tựu sẽ càng nguy hại cho võ lâm. Lão chỉ còn nửa mạng nhưng sẽ không để cho các vị đạt mục đích đâu!” Lão sư già đanh thép nói, mắt ông ánh lên vẻ cương nghi, khiến hai người kia liền có cảm giác e dè.”
“Vậy là lão đã tự tìm lấy đường chết, chớ oán trách nhau! Xem gươm” Lão già bên kia quát lên, nhanh như cắt sấn tới chém liền ba chiêu tấn công và cánh tay khuyết, cổ và bụng vị sư.
Vị sư già nghiên người né tránh, quanh người ông gió lộng lên, cánh áo trái xoay động, quấn lấy thanh gươm của đối phương, đúng lúc đó cô gái bên kia sấn tới, thanh gươm cô đâm thẳng vào hông phải lão sư, nơi cánh tay bị khuyết không thể đỡ gạt.
Chú Thích: Nguồn : wiki
(1): Huyệt Khí Hải (chữ Hán: 氣海穴, biển của khí) là một trong 36 đại huyệt trên cơ thể con người. Khí Hải nằm trên mạch Nhâm. Đôi khi người ta thường lấy tên là Đan Điền vì nó là một phần của vùng hạ Đan điền.
Vị trí
Đo từ rốn xuồng phía dưới 1,5 thốn đồng thân, điểm đó chính là huyệt Khí Hải.
Công dụng
Trong y học, nó là huyệt vị tốt chữa các chứng về đường tiểu, bệnh về thần kinh suy nhược, bệnh về đường sinh dục.
Trong khí công, nó là vùng tụ khí quan trọng bên dưới cơ thể, là cái bể chứa nguyên khí của cơ thể.
Trong võ thuật phương Đông, đây là một trong ba mươi sáu tử huyệt.
(2)Luân xa: Trong Ấn Độ giáo và một số nền văn hóa châu Á, một chakra (Devanagari: चक्र, Tiếng Việt: Luân xa) được cho là một nexus của năng lượng tâm linh và sinh lý ẩn trong cơ thể con người.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Hữu Phong
Nghe “keng” một thanh âm chát chói, thanh gươm trong tay cô gái chấn động mạnh, cong lại và đâm vào khoảng không, tiếp đó một thân ảnh màu xanh phóng đến, tung ra những dòn cước liên hoàn tấn công cô gái, khiến cô liên tiếp né tránh trong thế không thể phản công, chẳng có thời giờ để nhìn rõ người kia già hay trẻ, nam hay nữ huống hồ phán đoán chiêu thức của họ thuộc tông phái nào.
Càng lúc cô gái càng ở thế bất lợi, khoảng ba mười chiêu, người áo xanh cúi thấp người chân phải công vào song cước của đối thủ, cô gái nhảy lên, mừng thầm vì thời cơ đã đến, thanh gươm trong tay cô chém xuống với thế chẻ tre, chẳng chút khoan nhượng. Người áo xanh mỉm cười, thanh gươm vừa đến gần, anh ta nghiêng đầu, thân pháp mau lẹ cả người anh cong thành cánh cung, lạng một cái đã đứng lên, mặt đã gần chạm đến má phải của giai nhân.
Cô gái hơi bối rối thì thanh gươm của cô đã bị hai tay đối phương chế ngự, biết mình bị trúng kế thì đã quá muộn, vũ khí liền bị tước đoạt. Người áo xanh không thừa thế đả phương đối thủ, anh ta cho đối phương một cơ hội biết khó để lui, cô gái tức điên người nhưng cảm thấy mình đã nhận ân huệ. Trong lúc đó vị tu sĩ đã đánh lui lão già bên kia, ông ta dù cố gắn dụng công đến đâu, tất cả các chiêu thức đều bị bộ áo rộng của nhà sư kiềm chế. Nếu đánh cả ngày kết quả cũng chỉ có tệ hơn mà thôi.
“Mô Phật! Hai vị cư sĩ đi thong thả, hãy yên tâm giao cậu bé họ Đinh cho bần tăng, nhân duyên đã dẫn dắt cậu bé đến đây, các vị đừng nên nhọc lòng làm chi nữa!” Nhà sư buông lời khiêm cung, hai người kia không nói gì, lẳng lặng bỏ đi.
Người mặc áo xanh mới đến là một thanh niên tuổi đôi mươi, nhìn thoáng qua thì không phải là công tử con nhà quyền quý, nhưng nét mặt anh ta mang thần sắc uy dũng và trang nghiêm, nước da ngăm đen cùng thân người vạm vỡ săn chắc như tự công khai anh là một cao thủ ngoại công rồi.
“Sư phụ! Thầy bao năm qua sống yên ổn không chen với đời, không hiểu sao lại có người đến sinh sự, việc này phải chăng có liên quan đến thằng bé hôm qua!” Thanh niên cất lời, ngữ khí hòa hảo như các vị sư thuần hành.
“Mô Phật! Tường Minh! Con đoán đúng rồi, thằng bé đó có thân phận thật đặc biệt, nửa tháng trước ta có ghé thăm sư Chân Thịnh ở chùa Quốc Oai, vô tình có nghe câu chuyện của thằng bé, nó mới mười hai tuổi thôi phải nhận lãnh tội chết … Mô Phật!” Nhà sư cất tiếng niệm Phật rồi nói tiếp: “Trong lúc cấp bách bọn thuộc hạ của cha nó đã đến tương cứu, chắc trong số đó có hai người vừa rồi.”
“Ghê gớm vậy sao! Thân phận nó quá không hề tầm thường!” Thanh niên thoảng thốt, nhà gật gù nói tiếp: “Mô Phật! Chưa hết đâu, trước khi đưa ra pháp trường có đến ba nhóm người đến tấn công cướp ngục, mục tiêu của họ chính là thằng bé họ Đinh này, ta được sư Chân Thịnh cho hay, bọn giang hồ tin rằng, thằng bé chính là manh mối quan trọng để họ tìm kiếm một món đồ … đó là một bài thơ cổ!”
“Một bài thơ? Kỳ lạ! Bọn giang hồ đa số thường thô lỗ cộc cằn, đâu phải nho sĩ yêu văn yêu thơ gì đâu chứ!” Tường Minh khó hiểu trong lòng, buột miệng nói, nhà sư vẫn giữ nét điềm tĩnh cất lời: “Mô Phật! Nghe thì có vẻ kỳ lạ thật, nhưng chuyện một bài thơ bị tranh giành đã từng xảy ra trong quá khứ. Vào thời loạn mười hai xứ quân, đã có rất nhiều người nhảy vào nhưng cuộc tranh đoạt này. Người ta đồn thổi đủ thứ chuyện nào là bài thơ là bí kiếp võ công thượng thừa thất truyền đã lâu, có người cho rằng nó là một bản đồ kho báu … Nhưng nội dung bài thơ ra sao, nó chứa bí ẩn gì thì không ai hay biết … Sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai xứ quân, dẹp luôn những cuộc náo loạn trong giang hồ. Nhiều người tin rằng ông ấy đã có được bí kiếp lợi hại từ bài thơ nên không ai địch lại, người khác thì cho rằng họ Đinh có được kho báu nên có tài lực để củng cố quân đội, dẫn đến đánh đâu thắng đó.”
“Sự thật là như thế nào! Thằng bé họ Đinh này có liên quan gì đâu …” Nói đến đây Tường Minh dừng lại, nét mặt thay đổi, anh ta ngập ngừng nói tiếp: “Chẳng lẽ thằng bé họ Đinh này chính là con cháu của Đinh Tiên Hoàng?”
“Mô Phật! Theo mấu chốt nhiều vấn đề, rất có thể đây là sự thật, nhưng thằng bé có biết bài thơ hay không, thì việc này không dám chắc. Có một điều chắc chắn là thằng bé đang bị nguy hiểm, lúc đầu thầy định giữ nó ở lại chùa, nhưng giờ đã bị bọn người kia phát hiện, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chốn thanh tu của hàng trăm tăng sĩ, võ công con dạo này tiến triển vượt bậc, ta hoàn toàn tin tưởng để giao thằng bé cho con. Bao lâu này con vẫn muốn tìm kiếm cha mình phải không? Sẵn dịp này hãy đi đến Nam Sơn, vùng đất gần giáp ranh với người Chiêm Thành, có một người có thể biết tông tích của cha con, đó là họ Trần, ông ta là em rễ của cha thân sinh con đấy. Hãy nhớ những điều này, cha con là Phan Tường Thanh, em rể ông ấy tên là Trần Lâm, làm nghề thợ rèn, là một thợ rèn giỏi nhất Đại Cồ Việt, Con hãy nhớ lấy mười sáu chữ này. “Mồng tám tháng giêng, trên sông Lục Đầu, kết nghĩa kim lang, thề cùng sống chết!” Hãy nhớ lấy những lời đó, chỉ cần nói ra ông ấy sẽ biết con là huệ duệ của cố nhân.”
“Dạ! Con ghi nhớ rồi, thưa sư phụ!” Tường Minh tuân lời, sư thầy lấy trong bọc áo ra một lọ thuốc trao cho thanh niên họ Phan và nói: “Đây là thuốc bổ tâm, con hãy đều đặn cho thằng bé họ Đinh uống mỗi ngày, tuyệt đối đừng để nó luyện công, nếu không hậu quả khó lường.”
Phan Tường Minh đáp dạ rồi cáo biệt, chẳng tỏ ra buồn bã khi phải xa người thầy bao năm dung dưỡng ân nghĩa, vị tu sĩ mỉm cười hài lòng, giáo lý nhà Phật xem sinh ly tử biệt là chuyện thường của kiếp người không nên chấp vào đó mà phiền não, Tường Minh bao năm thiền hành đã thấu đáo được việc này, anh cho rằng làm tốt việc thầy giao là cách tỏ lòng biết ơn đối với người thầy của mình.
***********************
Cánh đồng hoa lan rừng như những đoàn quân kỷ luật nhất quán, bảo ban nhau xếp hàng ngay ngắn trải dài đến tận cuối đường chân trời xa thăm thẳm. Gió thu hiền hòa thổi mát vào lòng nhân thế, mơn man diều dắt tân hồn người thi sĩ. Nơi trời đất giao thoa, ánh nắng sớm chiếu rọi chan hòa.
Trên đỉnh đồi thấp thoáng bóng dáng hai con người, một già một trẻ. Người mặc áo rộng màu xanh lam tuổi chừng bốn mươi, bốn mốt. Ông có khuôn mặt chữ điền, ngũ quan sáng rỡ cùng với nét chấm phá uy võ của bộ râu dày, khiến người đối diện không khỏi sinh lòng ngưỡng mộ. Đứng cạnh là thiếu niên mặc áo da hổ chừng mười một, mười hai tuổi. Cậu bé tùy còn quá trẻ nhưng những nét thanh tú, hoa mỹ đã hiện rõ nét, hứa hẹn tương lai sẽ trở thành một mỹ nam tử có một không hai.
“Thu đến mang theo làn gió mát.
Hòa với rừng lan hương thơm ngát.
Giang sơn gấm vóc đẹp tuyệt vời!
Kẻ sĩ thấy thu, thu đang hát.”
Những câu thơ chứa đầy phong vị, được ngâm bằng tất cả trách nhiệm của một thi nhân yêu thơ, yêu cảnh, yêu vật. Người trung tuổi quay sang thiếu niên cất tiếng nói diệu nhẹ, trầm ấm: “Thường Kiệt! Con có thấy không, đất nước của chúng ta xinh đẹp biết mấy! Con có yêu nước nhà ?”
Thiếu niên thoáng suy nghĩ trên nét mặt, một hồi lâu môi mấp máy nhưng vẫn chưa nói. Người trung tuổi mỉm cười, kiên nhẫn chờ đợi câu trả lời của cậu bé.
“Câu hỏi của cha khó trả lời đến như vậy sao?” Người đàn ông hiền hòa nói. Cậu bé vẫn suy tư, chưa trả lời.
Giây phút im lặng, tiếp tục kéo dài, lúc đó dưới ngọn đồi thấp thoáng bóng dáng cô thôn nữ đang vui tươi gánh trên vai hai bó lúa. Cô ta vừa đi và bắt đầu cất tiếng hát. Giọng hát thanh tao, giản dị, ngân vang hòa trong lòng gió mát, lời ca mộc mạc, gần gũi với nhà nông chân lấm tay bùn. Người đàn ông bất giác không cầm lòng được buột miệng rêu lên “hát hay quá!”
Bài sơn ca dần trở nên nhỏ tiếng cho đến khi dứt hẳn thì hình bóng cô thôn nữ đã nhạt nhòa, nam nhân lại quay sang cậu con trai và nói: “Con có yêu những con người vất vả ngược xuôi, có yêu đồng bào ta?”
Cậu bé lại suy nghĩ miên man, người đàn ông vẫn kiên nhẫn đợi cậu trả lời.
Thời khắc trôi qua, cuối cùng câu ta cất tiếng nói: “Hai câu hỏi của cha thật sự trong đời này chẳng còn câu nào khó hơn, con tự cảm thấy mình không đủ khả năng để trả lời, cho nên con có thể không nói, được không cha ?”
Trung niên cười hiền hòa, quay sang cậu con trai bảo: “Cha vẫn tin tưởng vào con, mãi mãi là như vậy. Thôi! Chúng ta về nhà nhé!”
Cậu bé chợt cười hồn nhiên rồi nắm lấy tay cha mình kéo đi. Hai người đàn ông một đã từng trải sự đời, một thì chưa, họ dìu dắt nhau đi xuống dốc núi rồi qua những đoạn đèo quanh co, những con suối nước mát chạy róc rách, lâu lâu cậu bé cười lên khanh khách bởi những câu nói đùa của cha mình. Trung niên lòng tự nhủ, chẳng có gì hạnh phúc hơn nụ cười của con trẻ.
*********************
Mưa, hôm nay là một buổi chiều mưa tầm tã, cơn mưa như nổi oán giận của nàng thu đối với những ngày hè khô hạn. Gió, mỗi lúc một gia tăng thêm lên, như muốn thổi bay hết những gì còn sót lại của mùa cũ. Người, người lê thê những bước chân nặng nhọc, ông ta nghiến chặt hàm răng, như muốn thách thức tất cả, thách thức tất cả những vết thương sâu chí mạng trên người ông, thách thức với lão diêm chúa đang đe dọa mạng sống của ông. Cậu bé, cậu chờ cha cả buổi chiều nhưng không thấy bóng dáng cao cao cùng nụ cười hiền hòa ấy đâu. Thay vào đó là cảnh tượng bi thương tột cùng dần hiện ra trước mắt cậu.
“Cha!” Ngô Thường Kiệt hét lên trong nỗi kinh hoàng, người ông be bét máu thôi là máu, hơi thở dồn dập của ông khiến bụng dạ cậu cồn cào, như muốn đứt ra từng khúc. Giây lát sau, hai người ở chạy đến và giúp đỡ cậu, thân thể đầy thương tích của vị quan tên Ngô An Ngữ này được đưa vào chánh phòng, gia phủ nhỏ bé này náo loạn cả lên. Những tiếng người huyên náo thi nhau nói: “Gọi đại phu”, “Ông chủ! Sao thế này”, “nhanh nhanh lên”.
“Vô ích thôi! Thường Kiệt này, hôm trước … khi ở trên đồi Ngọc Lan, cha … cha đã hỏi … hỏi con … con có trả lời … cho cha được không?” Giọng nói yếu ớt của An Ngữ khiến con trai ông chấn động tâm thần, đối với cậu nó còn rúng động hơn hàng trăm hàng ngàn lần lời quát nạt của những kẻ cùng hung cực ác.
Trong khách phòng, Ngô An Ngữ đang nằm góc phía đông, trên chiếc phản chiêu khách, chính giữa giang nhà lớn này là bàn thờ tổ, theo đúng cách cha ông xưa bày trí. Ngô Thường Kiệt gạt lệ, ánh mắt cậu chợt trở nên cương nghị, mỗi ngày trên đất của người Việt luôn có những đứa trẻ mới được sanh ra đời, nhưng đứa trẻ đang lớn và những đứa trẻ sắp trưởng thành, nhưng một đứa trẻ nhỏ tuổi đã mang khí khái của một đấng anh hào, đầy rẫy chính khí như cậu thì trăm năm mới có một.
Thường Kiệt không nói một lời, cậu bé vỗ về lưng bàn tay cha mình như muốn nói “cha hãy yên lòng”, rồi cậu nhẹ cất bước đến bàn thờ tổ, thao tác nhanh nhẹn đốt lấy ba nén nhang, cậu nhẹ cất chân lui xuống ba bộ, nghiêm trang quỳ xuống cất tiếng nói dõng dạt: “Kính thưa các vị tiền nhân nhà họ Ngô! Con! Ngô Thường Kiệt con trai trưởng của Sùng Tiết Tướng quân Ngô An Ngữ, cháu sáu đời của Ngô Vương Quyền (2) … thừa hưởng chí hướng truyền đời của các vị Lạc tổ Lạc tông, hôm nay xin được thề nguyện, nếu một tấc đất của Đại Cồ Việt bị dày xéo con sẽ liều thân này để bảo vệ, nếu một người dân Việt bị bức hại con xin dùng tánh mạng này để ngăn cản, con …” Nói đến đây Thường Kiệt đã không thể giồng mình để kìm hãm cảm xúc được nữa, nước mắt nước mũi cậu tuông rơi, cậu quay đầu nhìn cha thì thấy nụ cười đã mãn nguyện trên môi ông, tay An Ngữ nắm thanh gươm hướng ra như muốn trao lại cho con mình, nhưng ông đã không giữ được đến lúc chính tay Thường Kiệt chạm vào, lúc thanh gươm rơi xuống đánh “keng” một tiếng cũng là lúc An Quốc công Ngô An Ngữ đã buông xuôi tất cả.
Chú Thích: nguồn wiki
(1)Ngô Thường Kiệt: sau này đổi sang họ Lý, ông tên thật là Ngô Tuấn (吳俊), là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Ngô Ích Vệ, chắt của Sứ quân Ngô Xương Xí và cháu 5 đời của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập–hoàng tử trưởng của Ngô Quyền, người phường Thái Hòa, thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Có tài liệu lại nói quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện Gia Lâm ngày nay). Cha ông làm Thái úy đời Lý Thái Tông[4], quê ở huyện Câu Lậu, Tế Giang (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hưng Yên), được vua ban quốc tính, vì mới có tên là Lý Thường Kiệt. Cha của Đỗ Anh Vũ gọi Lý Thường Kiệt là cậu ruột.
Sử sách Trung Quốc chép tên ông là Lý Thường Cát hoặc Lý Thượng Cát.
(2): Ngô Vương Quyền: là tên gọi theo dân gian của Ngô Quyền, người đã chỉ huy cuộc chiến chống quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Người này đã nói CÁM ƠN đến vài viết vô cùng hữu ích của Hữu Phong